Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 46

Tổng truy cập: 1433248

HÒA GIẢI

HÒA GIẢI

 

Yêu thương là ước mong và làm điều tốt cho người mình yêu. Một trong những điều tốt mà chúng ta nên làm và phải làm là giúp nhau nên trọn lành, nên tốt hơn trong từng ngày sống của chúng ta. Đã mang thân phận của con người thì không ai là không có những lần lỗi phạm. Chúng ta cần hình nhận sự thật đó để can đảm giúp người khác sửa sai và giúp chúng ta khiêm tốn đón nhận những góp ý và sửa lỗi của người khác dành cho mình. Chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận rằng: nếu mình còn có người giúp sửa sai và chỉ ra lỗi phạm của mình thì hãy lấy đó làm niềm vui vì biết rằng mình còn được người khác yêu thương.

Nhưng chúng ta phải nhớ rằng: sửa lỗi người khác và giúp người khác nhận ra lỗi lầm của mình không phải là chuyện dễ. Nó là một nghệ thuật. Nếu không khéo trong việc này, chúng ta sẽ mất cả chì lẫn chài. Bởi thế, Chúa Giêsu mới dạy chúng ta một phương thế để giúp những người sai lỗi mà chúng ta nên áp dụng cách triệt để trong sự khéo léo và khôn ngoan của ta.. vì giúp nhau nên lành thánh trở nên bổn phận bó buộc đối vớI người Kitô hữu chúng ta.

1. Mạnh dạn góp ý cho người sai lỗi:

Bản chất của Hội thánh là thánh thiện, nhưng Hội thánh đang cưu mang những con người chưa thánh và tội lỗi trong đó với ước mong giúp họ nên thánh và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Chúng ta không thể lạnh lùng khi thấy anh em mình sa ngã, bởi lẽ, tất cả chúng ta làm nên một thân thể và thông hiệp với nhau, mang những vết thương của nhau.

Chỉ ai yêu thương thật sự mới góp ý chân thật và thẳng thắn. Nhiều lúc, chúng ta chỉ dám nói sau lưng và nói quá nhiều những lỗi lầm của người khác. Hành động như thế, không lợi gì cho anh em của ta mà cũng chẳng lợi gì cho ta vì ta mang tội nói xấu anh em mình. Chúng ta không dám góp ý thẳng với anh em mình có thể vì chúng ta sợ: người khác giận mình, sợ người khác không đón nhận, sợ mất quyền lợi của mình…góp ý xây dựng là một dấu chỉ của yêu thương, chứ không phải là vạch lá tìm sâu. Nếu không phải vì đức yêu thương, ta tránh sửa lỗI người khác mà ta không có nhiệm vụ.

2. Tế nhị và tôn trọng kẻ sai lỗi:

Góp ý và sửa lỗi cho người khác là một nghệ thuật. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta những bước tiến hành để sửa lỗi cho người anh em của mình. Trước hết là sự gặp gỡ của ta với đương sự một cách âm thầm và kín đáo trên nguyên tắc là tôn trọng nhau. Nếu người sai lỗi cứ bướng bỉnh, cố chấp thì ta nên đem theo vài người nữa. Làm thế không phải là gây áp lực nhưng để vấn đề được sáng tỏ thêm và khách quan hơn. Nếu đương sự vẫn không nghe thì phảI đưa họ đến với cộng đoàn để cộng đoàn sửa sai họ. Nếu họ vẫn không chịu đón nhận thì có nghĩa là tự họ đã cô lập họ, tự họ tạo ra bóng đêm cho mình.

Như thế, việc góp ý nên tiến hành qua nhiều giai đọan. Thái độ và tâm tình cần có của người sửa lỗi là tế nhị, tôn trọng, yêu thương, kiên nhẫn với kẻ sai lỗi. Chúng ta cần có trái tim yêu thương của Chúa để luôn thao thức và quyết tâm đưa những kẻ lầm đường lạc lối về với Chúa: ” Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống.”

Hội thánh là một gia đình yêu thương và là nơi hàn gắn những bất hoà chia rẽ. Vì thế, mọi người phải có trách nhiệm liên đới với nhau để tạo sự hiệp thông liên lỉ trong Giáo hội Chúa. Mỗi người chúng ta cần trở thành sợi dây liên kết tình anh em trong cộng đoàn nơi mình sống. Một cộng đoàn trưởng thành là một cộng đoàn có khả năng ngồi lại với nhau để góp ý và giúp nhau sửa lỗi. Chúng ta cần yêu thương để dám góp ý và cần khiêm tốn để được góp ý.

Ngày nay, khi đi trên đường ở nước Thụy sĩ, người ta nhìn thấy một tấm biển lớn, trên đó có trình bày hai chiếc xe hơi: một chiếc màu đỏ, một chiếc màu xanh. Cả hai xe đi cùng chiều với nhau, những người ngồi trong hai chiếc xe ấy đang chào nhau và tươi cười với nhau. Người lái xe xanh đang ra dấu cám ơn lại bằng cách giở mũ chào.

Ở phần dưới tấm biển có ghi một hàng chữ: “Hợp tác là an toàn”. Điều này muốn nói lên rằng: giúp đỡ lẫn nhau, đối xử tốt với nhau như người cộng sự bằng tình bằng hữu là một bảo đảm cho một cuộc hành trình không nguy hiểm.

Không ai là một hòn đảo. Cuộc sống của con người chỉ thực sự lớn lên và triển nở khi sống với người khác và sống cho người khác. Xin Chúa ban cho chúng ta biết nhìn ra sự thật nơi mình để luôn biết sống nương tựa nhau và giúp nhau nên hoàn thiện theo ý Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.

 

 

 

 

 

24. Giáo Hội Chúa Kitô: Một cộng đoàn cứu độ - Lm Antôn Hà Văn Minh

 

Tin Mừng Mt 18,15-20: Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho…

***

SUY NIỆM

Nhac sĩ Thông Vi Vu (tức Đức cha Giuse Vũ Duy Thống) đã dệt lên tâm tình về sự cần thiết của đời sống cộng đoàn:

Con chỉ là giọt nước , giữa lòng biển cả mênh mông.

Một mình sao có thể , tưới mát cho ruộng đồng.

Con chỉ là dấu trắng , nhẹ dìu câu hát ngân nga.

Một mình con không thể , dệt lên bài tình ca.

Con chỉ là hạt nắng , phiêu bạt miền trời xa xôi.

Một mình sao có thể , chiếu sáng muôn lẻo đời.

Con chỉ là cánh én , nhìn trời cao vút thênh thang.

Một mình con không thể , làm nên cả mùa xuân.

Vâng, một  mình con không thể, Chúa biết điều đó, bởi con người bất toàn, khả năng giới hạn, thế mà Chúa lại mời gọi con người: hãy đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân, làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa. Công việc quá trọng đại, đúng là một mình con không thể, cho nên Chúa đã thiết lập Hội Thánh, một cộng đoàn duy nhất trong đức tin, và chỉ có Hội Thánh này mới có thể chu tất sứ mạng được giao phó, mới có thể tiếp tục công trình cứu chuộc của Chúa trên trần gian cho tới ngày Chúa quang lâm.

Tập thể tính thuộc về bản chất của Giáo hội, bởi nền tảng của Giáo Hội là tập thể các tông đồ, đức tin mà Giáo hội tuyên xưng và loan truyền là đức tin tông truyền từ tập thể các tông đồ trong sự duy nhất. Chính nơi Giáo Hội Chúa đặt để kho tàng ơn cứu rỗi như Công Đồng Vaticanô II đã minh định: Chúa Kitô đã thiết lập và không ngừng nâng đỡ Giáo Hội thánh thiện của Người nơi trần gian, một cộng đoàn đầy niềm tin, cậy, mến, như một cơ cấu hữu hình, nhờ đó Người thông truyền chân lý và ân sủng cho mọi người.” (Hiến chế về Giáo Hội số 8), vì thế, ơn cứu độ được tuôn trào từ Giáo Hội, cho nên Giáo Hội như là nơi chốn để con người kín múc được sự sống đích thật, “mặc dù nhiều nhân tố của ơn thánh hoá và chân lý có thể tìm thấy bên ngoài Giáo Hội tại thế, nhưng những nhân tố ấy, như là ân huệ dành riêng cho Giáo Hội Đức Kitô, đang thúc bách tiến tới sự hợp nhất công giáo” (Hiến chế về Giáo Hội số 8).

Do đó, đừng có ai tưởng rằng, mình sẽ có thể được cứu độ khi tự tách ra khỏi đời sống Giáo Hội như khách bàng quang, bởi Chúa đã khẳng định: ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” Điều đó cho chúng ta thấy, cộng đoàn đóng vai trò quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Các buổi qui tụ lại để cử hành phụng vụ, hoặc để thực hiện việc tôn thờ Thiên Chúa là điều cốt yếu của đời sống đức tin. Công Đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh: “Các nghi lễ theo bản chất phải được cử hành chung với sự tham dự đông đảo và tích cực của giáo dân, vì thế nên nhớ rằng, mỗi khi có thể, phải dành ưu tiên cho việc cử hành cộng đồng hơn là cử hành một mình hoặc gần như riêng tư” (Hiến chế về Phụng vụ số 27).

Nhiều người vì thờ ơ, lãnh đạm với đời sống đức tin, nên thường biện minh là “đạo tại tâm” để trốn tránh việc cùng cử hành phụng vụ hoặc cử hành các việc đạo đức chung với người khác. Nên nhớ không có đạo tại tâm, bởi đạo là đường dẫn đưa con người đến gặp gỡ một Đấng làm cho con người đạt tới sự toàn thiện. Quan niệm “đạo tại tâm” chỉ là sự lừa bịp lương tâm, bởi “tự tâm’’ chúng ta không thể, và không có khả năng kiến tạo sự toàn thiện để có thể đạt tới hạnh phúc đích thật, vì tự thân chúng ta là kẻ bất toàn, yếu đuối và hay chết.  Đức Kitô đến mạc khải con đường dẫn đến sự sống đời đời, con đường của sự gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ tha nhân, chính sự gặp gỡ này làm cho chúng ta khám phá ra giá trị của cuộc sống và hiểu được sự cần thiết của mối dây tương thân tương ái, và chúng ta cũng nhận ra rằng trên con đường dẫn tới sự gỡ không có một ai đơn độc một mình bước đí, nhưng luôn bao gồm nhiều người. Bởi thế, đạo dẫn tới sự sống được gọi là đạo của niềm vui, của sự hoan lạc, niềm vui được dệt lên bởi sự hiện diện của cộng đoàn, một mình đơn lẻ không thể làm nên niềm vui. Sự kết nối các tâm hồn cùng nhau hướng tới sự thiện hảo là điều kiện để Chúa hiện diện. Và chỉ có sự hiện diện của Chúa chúng ta mới có thể hiểu được đạo là gì, và tại sao chúng ta cần phải thuộc về Giáo Hội.

Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì Chúa đã qui tụ chúng con vào trong Giáo Hội và làm cho chúng con trở thành một cộng đoàn đức tin và đức ái, xin cho chúng con khám phá vẻ đẹp của đời sống cộng đoàn, để chúng con không thờ ơ với các công việc chung của đới sống Giáo Hội. Xin cho chúng con ý thức được rằng để được cứu độ chúng con cần phải nhờ đến cộng đoàn , và phải gắn bó với cộng đoàn mà chúng con thuộc về, tức giáo xứ nơi chúng con sinh sống. Amen.

 

 

 

 

 

25. Nợ tình thương - Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.

 

Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Ngài muốn tất cả mọi người nhận biết sự thật và sống hạnh phúc, đời sau và ngay cả ở đời này. Ngài muốn con người giúp nhau, sống hạnh phúc với nhau, dẫn đưa nhau chung hưởng sự sống vĩnh cửu.

1. Con người có trách nhiệm về anh em mình

Bài đọc trong sách tiên tri Êdêkiên cho thấy trách nhiệm của tiên tri như người canh giữ Israel. Trách nhiệm của người lính canh là loan báo, la lên cho những người có trách nhiệm và dân chúng biết những gì đang tới, đặc biệt những gì làm nguy hại tới nền an ninh của thành trì và dân chúng.

Trách nhiệm của tiên tri ở đây không là cảnh báo những nguy hại về an ninh chính trị, nhưng là về những sai lầm mà dân chúng cùng những nhà lãnh đạo mắc phải đối với Thiên Chúa và giữa họ với nhau. Trách vụ của tiên tri là giúp dân chúng nhận ra những sai lầm, để họ trở lại với Thiên Chúa. Trách nhiệm Thiên Chúa trao cho các tiên tri, các tiên tri phải hoàn tất; nếu không chính tiên tri phải chịu trách nhiệm.

Thời Cựu Ước, người ta thấy trách nhiệm của những người đặc biệt trong dân, chẳng hạn như trách nhiệm của các tiên tri và các vua chúa quan quyền. Người ta cũng liên đới trách nhiệm với nhau, giữa những người cùng máu huyết đồng bào, giữa vua và thần dân; chẳng hạn “cha ăn nho xanh, con cháu phải bị ghê răng,” vua Đavít phạm tội thì dân chúng cũng liên đới chịu phạt “bệnh dịch.” Qua thời Tân Ước, người ta thấy rõ mỗi người đều liên hệ với nhau, có trách nhiệm với nhau tuy dù mỗi người đều tự do và phải lãnh trách nhiệm về chính mình. Hôm nay trong Tin Mừng Đức Yêsu dạy, nếu một người anh em phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó; nếu nó không nghe, thì hãy đi với một vài người nữa, để giúp người anh em sửa đổi. Nếu phải dùng biện pháp mạnh, thì cũng chỉ nhằm giúp người anh em đó nhận ra sự thật để trở về với Thiên Chúa và với anh em mình thôi.

2. Nợ tình thương

“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi.” Tuy nhiên, có nhiều người không bác ái và tế nhị đủ khi sửa lỗi người khác, và làm cho người có lỗi không sẵn sàng nhận lỗi và sửa lỗi. Những người này chủ trương rõ ràng: “nếu đúng thì phải nhận là đúng, nếu thấy mình sai thì phải sửa, đơn sơ chỉ có vậy.” Lý thuyết và nguyên tắc là như vậy, nhưng thực tế con người yếu đuối, cái tôi và tự ái vẫn chi phối đời sống hằng ngày của mỗi người. Nếu chấp nhận chính con người và giới hạn của nhau, sẽ dễ dàng giúp nhau sửa lỗi hơn. Câu “chân lý trong bác ái” (veritas in caritate) giúp người ta ý thức nhiệm vụ phải làm chứng cho chân lý, nhưng không được quên khía cạnh bác ái.

Con người, ai cũng tốt, cũng nghiêng về sự thiện. Vấn đề chính là người ta không biết, không nhận ra những sai lầm của mình. “Nhân chi sơ, tính bản thiên.” Quan niệm trên, dường như phản ánh lập trường của Socrate, một triết gia Hy-Lạp nổi tiếng hồi xưa, ông chủ trương “con người chỉ có mỗi một tội là ngu dốt.” Tuy nhiên, một điều khác người ta cũng không thể phủ nhận, có những người ác, những người cố tình làm điều ác, muốn làm cho người khác khổ, thích thú khi thấy người khác khổ. Có những người chọn điều ác. Dưới một khía cạnh nào mà nói, những người chọn sự ác tuyệt đối là điều không thể hiểu được; nhưng những người chọn điều ác cách tuyệt đối vẫn có đó. Theo niềm tin Kitô-hữu, quỷ là những thiên thần chọn sự ác, những người trong hoả ngục là những người chọn điều dữ cách tuyệt đối.

Trong cách đối xử giữa con người với nhau, chúng ta phải giả sử ai trong chúng ta cũng hướng thiện, cũng phục thiện. Nếu chúng ta không suy nghĩ và sống như vậy, chúng ta cũng đang ở trong sự dữ. Tin vào con người, như Thiên Chúa vẫn tin vào con người và vào mỗi người chúng ta, là một dấu chỉ chúng ta đang ở trong đường lối đúng đắn của Thiên Chúa. Khi không tin vào con người nữa, e rằng chúng ta cũng không tin vào Thiên Chúa, và tính “thiện” cũng rất mờ nhạt nơi chúng ta. Thiên Chúa vẫn tin vào con người, ngay cả vào những người làm ác, cho tới giây phút cuối đời của họ. Bình thường Thiên Chúa vẫn thắng, vì tình yêu mạnh hơn sự chết, vì tình thương lớn hơn sự dữ.

3. Yêu thương là chu toàn mọi lề luật

“Anh em đừng mắc nợ nhau điều gì, trừ ra tình thương mến.” Nếu con người yêu thương nhau, con người đang hành xử giống Thiên Chúa; lúc đó, Thiên Chúa là Cha của họ, vì “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.” Yêu thương là cái gì thuộc bản chất con người mà con người đang thủ đắc mỗi ngày, càng yêu thương con người càng nên giống Thiên Chúa; càng yêu thương con người càng hạnh phúc.

Yêu thương, nên ai đó giúp người khác nhận ra sự thật. Và tin rằng, một khi nhận ra sự thật, người ta sẽ sửa đổi nếu người ta nhận thấy mình sai. Nếu người ta vẫn không sửa đổi được khi người ta nhận ra họ sai, nghĩa là, họ yếu đuối. Trong trường hợp này, người yêu thương thật tình là người thông cảm với những yếu đuối lỗi lầm của tha nhân, và chờ đợi họ sửa đổi; hơn nữa, họ tin tưởng Thiên Chúa là Đấng có thể làm cho con người kiên vững và biến đổi con người. “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho.” Thiên Chúa trên nơi cao thẳm, Thiên Chúa ngự sâu thẳm nơi lòng mỗi người, sẽ ban cho điều con người xin Ngài. Thiên Chúa tạo dựng con người tốt lành; tuy nhiên, con người tự do để sống theo tiếng gọi “yêu thương” của Thiên Chúa hay không.

Một khi con người yêu thương, là con người sống theo ơn gọi của mình, con người cảm nghiệm hạnh phúc chính khi mình yêu thương. Mọi lề luật, là để bảo vệ con người; để người khác không dùng tự do của riêng mình mà xúc phạm đến quyền của người khác. Một khi con người sống yêu thương, con người luôn tôn trọng người khác và quyền lợi của họ, thì lúc đó lề luật không cần nữa. Thánh Augustinô nói: “hãy yêu, rồi muốn làm gì cũng được.” Câu này phải được hiểu đúng nghĩa của chữ “yêu;” nếu một người yêu chân thực, họ sẽ không làm gì hại cho người họ yêu, trái lại, họ luôn muốn và làm những gì giúp người họ yêu hạnh phúc.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Có công bằng không, khi bạn phải có trách nhiệm với những người bên cạnh bạn?

2. Không có yêu thương nếu không có công bằng, bạn nghĩ sao về lời phát biểu này?

3. Thiên Chúa là Tình Yêu. Câu này diễn tả Thiên Chúa là Đấng nào? Xin bạn chia sẻ theo sự hiểu biết của bạn.

 

 

 

 

 

26. Sửa lỗi cho nhau - Lm. Ignatiô Hồ Thông

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm A nêu bật một chủ đề: “yêu thương đồng loại”.

Ed 33,7-9

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ bên cạnh đồng bào của mình trong cùng cảnh ngộ lưu đày như ông ở Ba-by-lon (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên). Ông cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cách ăn nếp ở của anh em mình.

Rm 13,8-10

Thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu Rô-ma thực hành tình tương thân tương ái. Bổn phận duy nhất, món nợ duy nhất mà chúng ta phải có đối với anh em đồng loại là Đức Ái.

Mt 18,15-20

Trong Tin Mừng, thánh Mátthêu trích dẫn những lời của Đức Giêsu mời gọi các Kitô hữu đừng để cho một người anh em nào của mình phải hư mất mà không tìm cách sửa lỗi cho người ấy, nhiều lần nhiều cách, với sự tế nhị cần thiết.

I. BÀI ĐỌC I (Ed 33,7-9)

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào cuối thế kỷ thứ bảy và đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Vào lúc đó, hoàn cảnh đất nước thật bi thảm. Vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong. Vua Na-bu-cô-đô-nô-so chiếm thành thánh Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất vào năm 598-597 và bắt đi lưu đày một phần lớn dân cư, nhất là thành phần ưu tú. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc trong số những người lưu đày đầu tiên nầy. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu bên cạnh những đồng bào lưu đày của ông cho đến khi qua đời, vào năm 571 trước Công Nguyên.

Ê-dê-ki-en trước khi ngôn sứ, đã là tư tế, vì thế, ông mang lấy ở nơi mình vừa tinh thần ngôn sứ vừa tinh thần tư tế. Bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật nầy làm chứng điều nầy. Trách nhiệm ngôn sứ và trách nhiệm tư tế thành một bất khả phân ly ở nơi ông.

Bối cảnh là làng Tel-Avi bên bờ sông Cơ-va không xa Ba-by-lon, nơi vị ngôn sứ cùng với một số người đồng hương sống trong cảnh lưu đày. Từ các biến cố, ngôn sứ Ê-dê-ki-en biết rút ra bài học. Các ngôn sứ đã kêu gọi vua, bậc vị vọng và toàn thể dân chúng hoán cải, nhưng lời của các ngài không được lắng nghe, vì thế sự trừng phạt bất ngờ giáng xuống trên họ. Nét độc đáo của sứ điệp mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi đến nhấn mạnh “trách nhiệm của mỗi cá nhân”. Đó là ý nghĩa lời kêu gọi của Đức Chúa mà chúng ta đọc trong đoạn văn nầy.

1. “Hỡi con Người”:

Diễn ngữ “con người” là đặc ngữ Sê-mít, có nghĩa đơn giản là “một con người”, “một cá nhân”, như trong câu: “Hỡi con người. Trong câu này, diễn ngữ “con người” quy chiếu đến chính vị ngôn sứ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thường sử dụng đặc ngữ này để nhấn mạnh: Thiên Chúa là Đấng ngàn trùng chí thánh, trước Ngài con người chỉ là một phàm nhân mõng dòn, yếu đuối và tội lỗi (6,1-6). Mỗi lần Thiên Chúa ủy thác cho ông sứ điệp của Ngài, Ngài đặt ông vào chỗ của ông để ông khỏi phải tự cao tự đại về những thị kiến hay xuất thần mà Thiên Chúa gởi đến cho ông. Vị ngôn sứ phải tự xoá mình như một kẻ vô danh tiểu tốt.

2. Người canh gác:

“Ta đặt ngươi làm người canh gác nhà Israel”. Những hình ảnh: “người canh gác”, “người canh thức”, “truyền lệnh sứ” rất quen thuộc trong Cựu Ước để chỉ ngôn sứ. Ở đây, vị ngôn sứ được Thiên Chúa công bố là “người canh gác nhà Israel”. Người canh gác đứng trên vọng gác tường thành có nhiệm vụ canh chừng tai họa sắp xảy đến mà cảnh giác dân thành kịp thời. Vì thế, vai trò của ngôn sứ không chỉ truyền đạt sứ điệp mà còn cảnh báo, đe dọa để kêu gọi dân chúng hối cải ngỏ hầu tránh những án phạt.

Xa hơn một chút, chính Ê-dê-ki-en gợi lên sứ vụ ngôn sứ của ông thật giản dị: “Phần ngươi hỡi con người, con cái dân ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các bức tường và trước các cửa nhà. Chúng bảo nhau, người nọ nói với người kia: ‘Nào chúng ta đến nghe xem Đức Chúa phán thế nào!’. Chúng đến với ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt ngươi; chúng nghe các lời ngươi nói…” (Ed 33,30-32). Chính trong những cuộc chuyện trò thân quen và gần gũi như vậy mà vị ngôn sứ mới có thể ngỏ lời với từng người một những lời cảnh báo trong tình huynh đệ.

3. Bổn phận đối với anh em mình:

Đối với dân Israel, chết không gì khác hơn là đánh mất ân huệ của Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện hảo. Cựu Ước thường trình bày những huấn lệnh của Thiên Chúa trong viễn cảnh của một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết, hạnh phúc và bất hạnh, lời chúc phúc và lời nguyền rủa (x. Đnl 30,15-20; Hc 15,15-16).

Ê-dê-ki-en là vị ngôn sứ đầu tiên nhấn mạnh sự thưởng phạt cá nhân: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con” (Ed 18,20). Số phận của mỗi người không phải luôn luôn bất di bất dịch như đinh đóng cột: người công chính có thể trở thành tội nhân; kẻ tội lỗi cũng có thể hoán cải trở thành người công chính.

Từ đó, ông nhấn mạnh trách nhiệm của người biết huấn lệnh của Thiên Chúa và luật luân lý của Ngài, người ấy có bổn phận phải giúp anh em mình biết biện phân tỏ tường, nếu không, đừng nghĩ là mình vô can trước sự hư mất của anh em mình: “Nếu Ta bảo đứa gian ác: “Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết”, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Sứ vụ của vị ngôn sứ cốt yếu ở nơi hành động nầy mà Đức Giêsu sẽ đích thân căn dặn các môn đệ của mình.

II. BÀI ĐỌC II (Rm 13,8-10)

Chúng ta tiếp tục đọc phần luân l#ý của thư gởi tín hữu Rôma. Thánh Phaolô vừa mới nêu lên những bổn phận công dân mà người Kitô hữu phải phục tùng: vâng lời chính quyền dân sự, nộp thuế. Dù phải chu toàn tất cả những nghĩa vụ công dân nầy, chúng ta vẫn phải là những kẻ mắc nợ đối với anh em đồng loại: món nợ tương thân tương ái không bao giờ hoàn tất được.

1. Yêu người theo Cựu Ước:

“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề luật”. Thập giới mời gọi phải tôn trọng nhân phẩm của tha nhân và của cải của họ như tội ngoại tình, tội sát nhân, tội trộm cắp…, nhưng không hàm chứa một cách minh nhiên bổn phận yêu người. Yêu người được sách Lê-vi 19, 18 công bố và được thánh Phaolô trích dẫn: “Ngươi phải yêu anh em đồng loại như chính mình”.

2. Yêu người theo Tân Ước:

Theo Cựu Ước, “anh em đồng loại” trước hết là những người cùng chung một dân tộc, đồng bào. Đức Giêsu đã mở rộng huấn lệnh yêu người đến tất cả mọi thành viên cộng đồng nhân loại, không có bất kỳ ngoại trừ nào, thậm chí phải yêu thương kẻ thù nữa. Thánh Phaolô nêu lên không chỉ luật Mô-sê, nhưng cũng luật Đức Ái Kitô giáo nữa. Thánh nhân không đề cập đến huấn lệnh thứ nhất: “mến Chúa”, vì lời khuyên bảo của thánh nhân nhắm đến đức ái huynh đệ. Vì thế, huấn lệnh yêu người bất khả phân ly với huấn lệnh mến Chúa, từ mến Chúa mà yêu người được khơi nguồn. Nếu yêu người vô giới hạn, chính là theo gương của Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người khôn cùng. Ở đây, bằng thể thức đóng khung, vị sứ đồ nhấn mạnh yêu người là “chu toàn lề luật” (13,8 và 9).

III. TIN MỪNG (Mt 18,15-20)

Trong chương 18 nầy, thánh Mátthêu tập hợp những huấn lệnh mà Đức Giêsu đã ngỏ lời với Nhóm Mười Hai, cộng đồng đầu tiên của Giáo Hội Ngài, về đời sống huynh đệ trong lòng Giáo Hội. Chương 18 này có thể chia thành hai phần: phần thứ nhất (18,1-14) bắt đầu với “những kẻ bé mọn” và kết thúc với dụ ngôn “con chiên lạc”; phần thứ hai (18,15-35) bắt đầu với việc “sửa lỗi cho anh em” và kết thúc với dụ ngôn “tên mắc nợ không biết xót thương”. Đoạn Tin Mừng hôm nay thuộc phần thứ hai, ở đó Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ cách thức sửa lỗi cho nhau trong đức ái.

1. Sửa lỗi anh em:

Việc Đức Giêsu mời gọi các môn đệ sửa lỗi cho nhau đã được Luật Mô-sê đề cập đến như được ghi trong sách Lê-vi: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó” (Lv 19,17). Câu trích dẫn nầy đặt liền sau huấn lệnh: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,18). Như vậy, sửa lỗi cho anh em thuộc về luật đức ái.

Theo truyền thống Do thái giáo, người ta không được truy tố kẻ phạm tội mà không cảnh báo trước trong chốn riêng tư. Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư phàn nàn là người ta không thực hiện tập tục tốt đẹp nầy. Đức Giêsu phục hồi tập tục nầy trong tinh thần yêu thương. Ngài đề nghị ba giai đoạn trong việc sửa lỗi huynh đệ.

– Sửa lỗi anh em trong cuộc gặp gỡ riêng tư chỉ giữa hai người, không ai khác hay biết.

– Nếu lần đầu tiên không có kết quả, tiếp tục lần thứ hai với sự hiện của một hay hai người khôn ngoan để kẻ sai lạc thấu tình đạt lý. Biện pháp nầy tránh cho tội nhân khỏi bị sỉ nhục ở nơi cộng đoàn.

– Nếu lần nầy cũng thất bại, lúc đó mới thưa với cộng đoàn. Nếu người anh em nầy không chịu nghe cộng đoàn, chỉ lúc đó người nầy mới có thể bị khai trừ hay bị kể như một người dân ngoại hay một người thu thuế, tức là một người ngoan cố, không có tinh thần phục thiện, mà người ta tránh giao tiếp.

Với những lời khuyên sửa lỗi cho nhau theo ba giai đoạn như trên, chắc chắn Chúa Giêsu muốn dự phòng các môn đệ của Ngài – sau họ, các cộng đoàn Kitô hữu – tránh tất cả mọi hình thức khai trừ một thành viên quá tàn nhẫn. Nhưng Ngài còn muốn hơn nữa rằng chúng ta noi gương vị mục tử nhân lành ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Chắc chắn không phải là ngẫu nhiên khi những lời khuyên nầy theo liền ngay dụ ngôn “con chiên lạc”. Giáo Hội phải bày tỏ sự ân cần như thế đối với người lỗi phạm.

2. Viễn cảnh Giáo Hội:

Đức Giêsu định vị bổn phận sửa lỗi anh em và những biện pháp kỷ luật mà cộng đoàn Kitô hữu áp dụng trong khung cảnh thiết lập Giáo Hội Ngài. Chính như vậy mà Ngài mở rộng năng quyền, mà trước đây Ngài đã trao phó cho thánh Phê-rô, bây giờ cho Tông Đồ Đoàn: “Tất cả những gì dưới đất anh em cầm buộc, trên trời cũng cầm buộc như vậy; tất cả những gì dưới đất anh em tháo cởi, trên trời cũng tháo cởi”. Và Ngài sẽ tái khẳng định năng quyền nầy cho họ sau khi Ngài phục sinh (Ga 20,23).

Đức Giêsu thêm vào ở đây một lời hứa khác: Ngài sẽ luôn luôn hiện diện ở giữa các tín hữu của Ngài khi họ họp nhau lại mà cầu nguyện, dù chỉ hai hay ba người đi nữa. Cha Ngài, Đấng ngự trên trời sẽ lắng nghe và đáp trả lời cầu xin của họ, bởi vì Đấng cầu bầu cho họ không ai khác ngoài “Đức Giêsu đích thân ở giữa họ”. Khi đặt tính hiệu lực của lời cầu nguyện như thế vào trong văn mạch sửa lỗi cho anh em, chắc chắn Chúa Giêsu nhắm đến không chỉ việc tiến hành sửa lỗi cho anh em theo ba giai đoạn, nhưng còn phải cầu nguyện cho anh em lỗi phạm nữa, ngõ hầu nhờ ơn Chúa mà anh em nhận ra và sửa lỗi để cộng đoàn không phải mất bất cứ người anh em nào. Tấm lòng của vị mục tử nhân lành là không muốn bất cứ con chiên nào phải hư mất.

 

 

 

 

 

27. Trách nhiệm - Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Truyện kể: Một du khách đang rảo qua khu danh lam thắng cảnh ở Thụy Sĩ, ông dừng lại trước hàng rào của một khu vườn hoa đẹp đẽ bao quanh một lâu đài. Người làm vườn mừng rỡ và đón chào. Họ nói chuyện với nhau về các loài hoa. Ông du khách hỏi: Cụ ở đây bao lâu rồi? Thưa, được 24 năm. Cụ đã gặp chủ nhân được mấy lần rồi? Tôi đã gặp 4 lần và lần cuối cách đây ba năm. Vậy ông ta có thường liên lạc với cụ không? Thưa không. Vậy ai trả lương cho cụ? Viên quản gia của ông chủ. Người quản gia có năng tới đây không? Tôi chưa hề gặp ông ta, chúng tôi liên lạc bằng thơ từ thôi. Thế thì ai thưởng lãm cảnh đẹp này, mà cụ phải mất công chăm sóc kỹ lưỡng như vậy? Ô, thưa ông, tôi chu toàn trách nhiệm của mình và tôi làm như chủ tôi sẽ đến ngày hôm nay, ngay bây giờ. Ngoài ra chính khi làm đẹp khu vườn của ông chủ, vợ chồng tôi cũng được vui hưởng cảnh đẹp.

Ông Adong và bà Evà có hai con trai đầu, Cain và Abel. Vào một ngày kia, Thiên Chúa đã hỏi Cain: Abel, em ngươi đâu rồi? Cain thưa: Con không biết, con là người giữ em con sao? (Stk 4,9). Vì ghen tương, Cain đã giết em mình, nhưng Cain đã chối từ trách nhiệm. Thiên Chúa thấu tỏ mọi sự trong lòng. Cain và Abel là anh em ruột, đương nhiên anh em là có trách nhiệm nâng đỡ bao bọc lấy nhau. Bất cứ việc gì xảy ra trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội, phải có người chịu trách nhiệm. Người ta thường nói rằng: Tội qui vu trưởng. Thường là người đứng đầu một tổ chức sẽ chịu trách nhiệm trước. Chúng ta không thể đổ thừa quanh. Nhân loại là một loài thụ tạo cao quý có trí khôn, ý chí và tự do. Trách nhiệm của con người liên đới được mở rộng qua các tổ chức xã hội để giúp nhau thăng tiến.

Khi dân số tăng trưởng, con người đã tổ chức cơ cấu đời sống gia đình và xã hội. Gia đình là đơn vị nhỏ nhất để xây dựng một cộng đoàn xã hội. Chúng ta biết mỗi một cá nhân đều có căn tính riêng biệt. Trong gia đình xã hội có nhiều thành viên khác nhau hợp lại, bao gồm có người khôn kẻ dại, người tốt kẻ xấu, người rộng kẻ hẹp và người mạnh kẻ yếu. Mọi người cần tựa dựa vào nhau để sinh sống. Mỗi thành viên đều có trách nhiệm liên đới để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Tiên tri Ezekiel đã rao giảng về sự giúp nhau sửa đổi: Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi (Ez 33,9). Chúng ta không thể nhắm mắt, bịt tai và làm ngơ trước những sự dữ hay sự xấu nơi những người anh chị em. Chúng ta có bổn phận nâng đỡ nhau nhận ra những sự sai trái và giúp nhau sửa đổi, đây là một món nợ của tình người.

Vì mang bản tính yếu đuối, hằng ngày mỗi người chúng ta đều phạm lỗi, kẻ ít người nhiều. Có những lỗi nhẹ, dễ dàng xí xóa bỏ qua. Nhưng đôi khi có những thói hư tật xấu đã trở thành thói quen thì cần được chỉ giáo và khuyên răn. Chúng ta biết sự xấu được ngụy trang dưới nhiều cách thế, chúng ta khó có thể lật tẩy để nhận diện ngay. Đôi khi những tật xấu núp dưới bóng của những cử chỉ và lời nói ngon ngọt, êm dịu và nhẹ nhàng. Có những phát biểu tưởng là góp ý tốt lành, nhưng ẩn ý là phê bình, chỉ trích, gièm pha, ăn không nói có… Tất cả cái xấu cũng do cái lưỡi không xương lắt léo nhiều đường. Lời nói như chiếc dao hai lưỡi rất nguy hiểm. Lời nói có thể xây dựng đoàn kết và cũng có thể gây hệ qủa xấu như chia rẽ, thù oán và hại người hại ta. Nếu không xét mình một cách thành thật, chúng ta rất khó nhận ra những lỗi lầm này.

Là anh chị em sinh hoạt chung trong một nhóm, hội đoàn hay cộng đoàn, chúng ta có trách nhiệm nhắc bảo và giúp đỡ nhau sửa sai. Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta sống tình tương thân tương ái giúp nhau nhận lỗi và sửa lỗi: Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em (Mt 18,15). Biết rằng sửa lỗi anh chị em không phải dễ, vì chúng ta ai cũng phạm lỗi. Chúng ta biết người phạm lỗi là những người yếu đuối. Ít có ai muốn nghe những điều tiêu cực về chính mình. Vì chúng ta dễ tự ái, nên rất khó chấp nhận sự sửa sai của người khác. Thường thì việc người thì sáng, việc nhà thì đui. Chúa Giêsu mách nước cho chúng ta về sự sửa lỗi, trước hết hãy sửa dạy cách kín đáo và riêng tư. Chúng ta phải hết sức tế nhị gợi ý để người khác nhận ra lỗi của họ. Khi nói đến vết thương lòng thì rất dễ nhạy cảm. Những phản ứng tự nhiên của kẻ mắc lỗi thường thì gay gắt khó chịu. Nhưng với lòng từ bi và sự kiên nhẫn, chúng ta có thể thuyết phục người anh chị em chịu nhận sai lầm và trách nhiệm của việc sai trái.

Vì con người có ý chí tự do, nên mỗi người phải chịu trách nhiệm về việc mình đã làm trong cả tư tưởng, lời nói, chữ viết và hành động. Nơi cuộc sống chung, có những trách nhiệm cụ thể cá nhân và có những trách nhiệm liên đới tập thể. Trong đời sống gia đình, người cha, người mẹ và con cái có những bổn phận và trách nhiệm riêng biệt. Nơi cuộc sống xã hội, mỗi tổ chức đều có người chịu trách nhiệm trong lãnh vực của mình. Mỗi thành viên đều có bổn phận góp phần xây dựng cuộc sống chung tốt đẹp. Có phước cùng hưởng, có nạn cùng chịu. Người dám nhận lãnh trách nhiệm là người trưởng thành. Làm sai thì nhận lỗi sai. Công việc thành công hay thất bại là lẽ thường của đời sống. Khi chối tội, chạy tội, dấu tội hay đổ thừa lỗi lầm cho người khác là thiếu trách nhiệm. Sai thì sửa. Có lỗi thì xin lỗi. Làm tội thì chịu tội. Đối diện với sự xấu, sự dữ và sự thất bại, đôi khi chúng ta cảm thấy ngại ngùng, xấu hổ và chối từ, nhưng chỉ có sự thật sẽ giúp chúng ta tìm lại được sự bình an đích thực.

Chúng ta đang trên đường lữ thứ trần gian. Mỗi ngày chúng ta sống là một ngày hồng ân. Chúng ta không biết chắc chắn về tương lai. Mọi sự cố đều có thể xảy ra. Anh chị em đừng để mắc nợ nhau sự gì. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Rôma đã khuyên: Anh em thân mến, anh em chớ mắc nợ ai, ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật (Rm 13,8). Sống giây phút hiện tại cho tròn đủ. Đức ái là yêu thương, tha thứ, nhường nhịn và quảng đại. Chúa Giêsu tóm kết các giới răn vào hai điều: Mến Chúa và yêu người. Yêu thương nhau là tôn trọng nhau. Yêu thì không gây sầu, oán giận, gây thiệt hại hay thù ghét làm khổ người khác. Yêu thương nhau là muốn điều tốt cho nhau và cùng nhau tiến bước trên con đường hoàn thiện: Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật (Rm 13,10).

Nếu không có ơn Chúa phù trợ, chúng con không thể làm gì được. Cầu nguyện là hơi thở trong đời sống đạo. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện. Nhưng đẹp ý Chúa hơn, nếu nơi nào có hai ba người đồng lòng hợp ý cầu nguyện, thì ơn Chúa sẽ tuôn đổ dồi dào hơn: Thầy bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó (Mt 18,19). Hai người cùng cầu nguyện nói lên sự hỗ tương, yêu thương, hòa thuận và chung lòng chung ý. Một hình ảnh rất thuyết phục, các dòng tu thường sai từng hai tu sĩ ra đi rao giảng và phục vụ, giống khi xưa, Chúa đã sai từng hai môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng.

Lạy Chúa, chúng con là những Kitô hữu, mang danh của Chúa Kitô, xin cho chúng con biết yêu thương nhau và giúp nhau thăng tiến trên con đường trọn lành.

 

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ