Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 113

Tổng truy cập: 1425572

Hãy đụng chạm tới lòng Chúa thương xót

Hãy đụng chạm tới lòng Chúa thương xót
Môn đệ Tô-ma đòi được tận tay chạm vào các thương tích của Thập Giá nơi thân thể Chúa
Phục Sinh: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ
đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Tại sao lại thế nhỉ? đòi
hỏi của ông có thật sự cần thiết không? gặp được Thầy Giê-su sống động, đi lại, nói năng
và ăn uống như người thường, chẳng lẽ lại không đủ sao? tại sao ông lại đòi hỏi phải được
“cho xem tay và cạnh sườn” Người? hơn nữa, việc mắt thấy tay chạm có ý nghĩa đặc biệt
nào đối với nhóm môn đệ nhút nhát, nhất là đối với ông Tô-ma?
Dưới cặp mắt các môn để, việc Thầy Chí Thánh bị đóng đinh vào thập giá và con tim
Người bị đâm thủng chắc chắn không chỉ mang ý nghĩa thể lý về cái chết đau đớn của một
thân xác treo trên giá thập tự. Đối với các ông – và đó cũng là nội dung giáo huấn trường
kỳ của Đức Giê-su trước đây, dấu đinh trên tay chân và vết thương nơi cạnh sườn mà họ
nhìn thấy nói lên sự tự hiến yêu thương của Chiên Vượt Qua, diễn tả tình yêu bao la của
Thiên Chúa cứu độ. Khi cho các ông xem tay và cạnh sườn, Đấng Phục Sinh hẳn muốn nói
cho các môn đệ thân yêu một điều gì vượt xa lời khảng định rằng: Người đã sống lại về
mặt thể lý. Điều Người muốn khảng định qua các dấu tích đó là: tình yêu thương xót và
cứu độ của Thiên Chúa đã trở thành bất diệt và toàn thắng! Các môn đệ do đó cần một
cảm nhận cụ thể để tin vào điều này cách vững bền. Các ông là những nhân chứng được
chứng kiến tình yêu đó đã đạt tới đỉnh điểm, thì cũng cần phải xem và chạm vào các dấu
đinh ở tay chân, và vết đòng trên ngực Người để có bằng chứng không thể chối cãi rằng
lòng xót thương tha thứ đó vẫn còn sống, vì nó là vô địch.
Môn đệ Tô-ma trong thâm sâu muốn điễn đạt nhu cầu đó khi phát ngôn câu nói mà nhiều
khi bị coi là thách thức: “Nếu tôi không….” Phần mình Đức Giê-su phục sinh đã coi yêu
cầu đó là hoàn toàn chính đáng, và Người không ngần ngại đáp ứng: “Đặt ngón tay con

vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”. Quả vậy, Tô-
ma và tất cả các môn đệ khác đều cần tới cái cảm nghiệm cụ thể này, nhất là sau tất cả các
biến cố xáo trộn mà các ông vừa trải qua; ông đã thấy, đã chạm vào các dấu tích…, và ông
đã tin. Ông không chỉ tin Chúa đã sống lại, mà đúng hơn: tin vào sự toàn thắng của tình
yêu cứu độ.
Đối với Ki-tô hữu chúng ta thuộc các thế hệ sau này thì sao; Đức Giê-su đã không hề
tuyên bố trải nghiệm đó là không còn cần thiết! Ngược lại là đàng khác! Tuy nhiên Người
khảng định: trải nghiệm này phải được thể hiện bằng lòng tin, thay vì phải đụng tới bằng
giác quan thể lý, “Vì đã thấy Thầy nên anh đã tin. Phúc thay những người không thấy mà
tin”.
Bí tích Thánh Thể mà Người đã thiết lập chính là để các tín hữu trải qua các thế hệ chạm
tới được các dấu đinh trên tay chân và vết thương cạnh sườn Chúa Phục Sinh. Cử hành
Thánh Thể vì thế trở nên tâm điểm của đời sống Ki-tô hữu, chính vì nơi đây, trong niềm
tin, các Ki-tô hữu từng người một, cảm nghiệm cách rất riêng tư và sống động lòng thương
xót vĩnh cửu của Thiên Chúa đang được lặp lại cho mình. Trong cử hành Thánh Thể, linh
mục và tín hữu cùng được mời gọi “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy,
đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”; đúng là họ, hơn bất cứ ai khác, cần đụng chạn tới
biểu hiện của lòng thương xót cứu độ, trong tất cả sức mạnh và hữu hiệu của nó. Bất luận
ai là Ki-tô hữu đều phải coi đây là công việc quan trọng hàng đầu họ cần làm! Họ sẽ có
cùng thái độ của Phê-rô và Gio-an, khi đứng trước người bất toại trong hành lan đền thờ:
“Anh hãy nhìn chúng tôi đây… Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có tôi cho anh
đây…” (Cv 3:6) Mọi Ki-tô hữu, bao gồm cả tu sĩ, linh mục lẫn giáo dân, cách riêng các
tân tòng, đều cần ý thức rằng: họ không nhất thiết phải là người giầu có nhất về mặt vật
chất tiền của, cũng không cần là những người phong phú nhất về diện tinh thần hay thiêng
liêng, nhưng gia sản quí giá nhất họ sở hữu, đặc ân duy chỉ một mình họ có, đồng thời
cũng là điều duy nhất họ có thể cống hiến cho nhân loại đang quằn quại trong nỗi thống
khổ cùng cực, đó là được biết, được chạm tới, và được cử hành cách sinh động lòng
thương xót từ ái vô biên và bất diệt của Thiên Chúa, đã được thực hiện qua Thập Giá và
Phục Sinh của Đức Ki-tô Giê-su.
Riêng cá nhân tôi! tôi có thực sự xác tín điều này không?
Lạy Chúa Phục Sinh, xin cho phép con được dùng đức tin để xỏ ngón tay con vào các lỗ
đinh, đặt bàn tay con vào cạnh sườn Người, để con có được cảm nghiệm sâu sắc rằng:
tình yêu cứu độ Chúa dành cho con quả là bất diệt. Xin cho việc cử hành Thánh Lễ hàng
ngày mang lại cho chính con trước hết sự bình an của một người cảm nhận mình
đượcThiên Chúa yêu thương, và tin chắc rằng: tình yêu đó sẽ bất diệt và bền vững cho đến
muôn đời, bất chấp những yếu hèn, sa ngã của kiếp người ô trọc. Xin cho con được cử
hành mầu nhiệm Phục Sinh ngay từ bây giờ, trong chính đời sống hàng ngày của con. A-
men
02- Phục sinh: tạo dựng con người mới trong Thần Khí thứ tha
Theo tông đồ Gio-an: lần Đức Ki-tô Giê-su hiện ra trước đông đủ các môn đệ sau khi sống
lại (việc hiện ra lần hai có mặt cả Tô-ma, càng nhấn mạnh sự đông đủ này) có một tầm
quan trọng rất lớn. Sau những lời chào hỏi và tự giới thiệu, Người đã tuyên bố một điều và
làm một cử chỉ long trọng hầu biểu lộ trọn vẹn bản chất sâu xa nhất của tông đồ đoàn và
của người môn đệ, tức là của những kẻ tin và thuộc về Người – của Hội Thánh. Người thổi
Sinh Khí mới vào các môn đệ và sai các ông ra đi để thứ tha; “Như Chúa Cha đã sai Thầy,
thì Thầy cũng sai anh em… Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy
nhận lấy Thánh Thần”. Nếu trước đó Người đã ‘cho các ông xem tay và cạnh sườn’ thì

cũng chỉ là: để các ông nhận ra Con Người Phục Sinh cũng chính là Con Người Cứu
Chuộc. Con Người đó đã được Chúa Cha sai đến để cứu rỗi trần gian, “Thiên Chúa đã yêu
thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn đời” (Ga 3:16). Người Con này một khi đã sống lại, cũng yêu thế gian
đến nỗi, đã sai các môn đệ của mình đi, hầu tiếp tục sứ vụ làm cho thế gian khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời.
‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”’.
Cũng như trong cuộc tạo dựng đầu tiên, hơi thở của Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con
người để làm cho A-đam được sống, thì cũng vậy, hơi thở của Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh
thổi Thần Khí vào các môn đệ, hầu các ông trở thành sinh vật mới. Nếu thổi hơi lần đầu đã
ban cho con người quyền sống để làm bá chủ muôn loài (St 2:7), thì hơi thổi lần hai này
ban cho người môn đệ ơn tha thứ, để rồi họ cũng thi hành quyền thứ tha cho hết mọi người
“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha”. Nếu Thiên Chúa tạo dựng là Thiên Chúa
hằng sống, và ai nhận được hơi thở của Ngài sẽ có sự sống và có khả năng thông truyền sự
sống (St 1:28), thì Đức Ki-tô Phục Sinh là hiện thân Thiên Chúa thứ tha và xót thương,
nên ai nhận được hơi thở của Người cũng được tha thứ, và có khả năng làm lan tỏa thứ tha
tới hết mọi người; như thế, trong Thần Khí Đức Ki-tô Phục Sinh người môn đệ trở nên tạo
vật mới đầy tràn sức sống của thứ tha và xót thương. Nếu mọi con người đều có quyền
sống, thì mọi Ki-tô hữu đều có quyền sống thứ tha! Nếu mọi người nhân loại đều phải bảo
vệ sự sống và truyền sinh, thì mọi Ki-tô hữu trong Hội Thánh cũng đều phải bảo vệ ơn tha
tội và thúc đẩy việc thứ tha! Tôi thiết tưởng: cái gọi là ‘quyền tha tội và cầm buộc’ của
Hội Thánh phải được hiểu trong ý nghĩa và nội dung này.
Về mặt này tôi rất tâm đắc với nhận xét của Hurault trong Christian Community Bible:
“Ki-tô hữu càng nỗ lực tiến xa trong đời sống thiêng liêng luân lý, thì càng thấy mình chưa
được hoàn toàn giải thoát khỏi tội lỗi. Do đó họ càng cảm nhận ơn tha tội là một quà tặng
và quyền lợi lớn lao nhất được ban cho Hội Thánh. Tội không phải chỉ là những lỗi luân lý
phạm hàng ngày, trong đó phần sai lầm và yếu đuối là chính. Tội thực ra là từ chối hay e
sợ nộp mình cho Thiên Chúa tình yêu và tha thứ, là Đấng duy nhất có khả năng đưa chúng
ta đến một cuộc sống hoàn toàn trần trụi, nhưng lại hoàn toàn viên mãn. Một khi tha tội
cho chúng ta, Người ban cho ta khả năng biết tự nộp mình cho Người. Nói cách khác, đó
là khả năng tha thứ, là sức mạnh duy nhất cho phép ta giải quyết và giải phóng mọi kiểm
tỏa con người… Thái độ dung thứ là bí quyết vô cùng quí giá mà Hội Thánh phải xem là
tài sản độc đáo nhất của mình, là Tin Mừng mình đón nhận và trao ban cho thế giới… Ki-
tô hữu lãnh nhận bí tích rửa tội tức là họ ý thức thân phận tội lỗi trường kỳ của mình, họ
đón lấy hơi thở Thần Khí thứ tha của Thiên Chúa, và họ quyết sống tình yêu tha thứ này
luôn mãi trong đời mình và trong mọi tương quan với tha nhân. Tha thứ, đối với họ, là
quyền sống căn bản nhận được từ Đức Ki-tô Phục Sinh, mà họ sẽ cố bảo vệ bằng mọi giá”.
Như thế: ai càng thuộc về tông đồ đoàn, thì càng phải cảm nhận được hơi thở tha thứ của
Đức Ki-tô Phục Sinh cho mình; càng là tín hữu trung kiên trong Hội Thánh, tôi càng phải
sở đắc và sống sung mãn ơn cứu độ và thứ tha.
Tôi thiết nghĩ, trong tư cách một linh mục của Hội Thánh, tôi là người trước hết phải nắm
bắt được bản chất thánh thiện đích thực này của Giáo Hội, và thi hành quyền ‘thứ tha’ mà
Đức Ki-tô đã ban cho Hội Thánh trong Thánh Thần với tất cả sự khẩn trương và quảng
đại. Đặc biệt trong thế giới hôm nay, khi mà giới trẻ đang trông chờ được Hội Thánh chính
thức trình bày cho chúng khuôn mặt thật này của Đức Ki-tô Phục Sinh: một Đức Ki-tô đầy
nhân ái và thứ tha mà chúng hằng mong đợi.

Lạy Chúa Phục Sinh, xin thổi hơi Thần Khí một lần nữa trên con và trên mọi tín hữu như
Chúa đã thổi trên các môn đệ trong lần hiện ra đầu tiên. Trong đêm Phục Sinh, con đã
tuyên xưng mình muốn sống Ki-tô hữu cách trọn vẹn hơn. Xin dạy cho con hiểu rằng: sống
Ki-tô hữu là giữ trọn quyền được tha thứ và thứ tha cho tha nhân. Xin hãy sai con đi làm
chứng tá cho tình yêu Phục Sinh của Chúa. A-men.
03- Nền công lý Phục Sinh
Gioan thật nhẹ nhàng khi mô tả 04 lần Đức Giê-su hiện hình sau khi ra khỏi mồ: lần một
cho Maria Mác-đa-la, 02 lần sau cho các môn đệ tụ họp trong nhà, và lần cuối cho một số
môn đệ trên bờ hồ Ti-bê-ri-a. Và trong tất cả các lần hiện ra này, chẳng có gì là hoành
tráng cả, không hào quang chói lọi, không uy nghi rực rỡ…, nhưng rất đời thường, có luôn
cả cảnh ăn uống bình dị nữa; thế nhưng, hình như có một điều gì đó hết sức phi thường ẩn
dấu dưới cái tầm thường, một sức sống hoàn toàn mới bừng lên giữa bầu không khí lạnh
lẽo của thương tích và chết chóc.
Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật II Phục Sinh hôm nay nói về hai lần Chúa hiện hình với các
môn đệ đang qui tụ trong nhà; ngay từ thời xa xưa, hình như đoạn văn này đã có một tầm
quan trọng đặc biệt đối với đức tin của các Ki-tô hữu tiên khởi. Niềm tin của các môn đệ,
đặc biệt của Tô-ma là đề tài của hai lần hiện hình này. Các môn đệ, sau khi được xem các
dấu đinh nơi tay và cạnh sườn Đấng Phục Sinh, đã tin rằng: Thầy Giê-su từng chết nhuốc
khổ trên cây thập tự và được tẩm liệm mai táng trong nấm mồ đá, nay đã sống lại thật rồi.
Tông đồ Tô-ma còn được Đấng Phục Sinh mời gọi đích danh, “đặt ngón tay vào đây, và
hãy nhìn xem tay Thầy; đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”, chỉ vì ông chưa xác tín đủ
niềm tin ấy.
Ta có thể thắc mắc: câu tuyên xưng đức tin của Tô-ma, cũng là đại diện cho các môn đệ
khác, “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” thực sự có ý nghĩa và mang nội dung
gì? Các ông muốn tuyên xưng rằng: Thầy Giê-su quả đã sống lại, hay Giê-su là Thiên
Chúa quyền uy thống trị, hay một điều gì khác? Hơn nữa khi cho các môn đệ xem, và mời
gọi Tô-ma cách đặc biệt chạm tay vào các lỗ đinh và vào vết thương cạnh sườn thì chủ
đích của Người là gì? Nếu chỉ là để xác nhận thực con người đã chết nay sống lại, thì hẳn
niềm tin này sẽ làm cho các môn đệ hết sức kinh hãi; các ông đã chẳng người bán kẻ chối,
kẻ khác thì trốn chạy trước cái chết của Thầy mình là gì? Có thể phần nào là đúng như
vậy, vì trong lần hiện hình nào Người cũng khởi đầu bằng câu chào: “Bình an cho anh
em!” Còn nếu để minh định mình là Đức Chúa quyền uy theo quan niệm Cựu Ước thì
Người đã thất bại, vì thân thể và cách thức Người xuất hiện thực chẳng có gì là sáng láng
uy hùng cả. Đàng này tác giả Gio-an lại cho biết: ‘các môn đệ vui mừng vì được xem thấy
Chúa’. Hình như trong các lần hiện hình này Đức Giê-su đang muốn xây dựng nơi các ông
một niềm tin mang nội dung tích cực: niềm tin tuyệt đối vào tình yêu tha thứ của Thiên
Chúa. Quả thực, để cụ thể hóa niềm tin rất mới mẻ và thiết yếu đó, Người không những đã
muốn các ông chạm vào các dấu đinh – bằng chứng của tình yêu cứu độ – mà còn trao vào
tay các ông một sứ mệnh mới, rồi sai các ông ra đi loan truyền.
Sức sống của niềm tin vào tình yêu tha thứ được xác định là Thánh Thần. Chính Thần Khí
này đã đưa Giê-su vào trần gian, đã hướng dẫn bước đường cứu chuộc của Giê-su nơi
dương thế, đã dẫn đưa Giê-su tới hiến mình trên thập giá, đồng thời cũng làm cho Giê-su
sống lại. Thánh thần từ nay được ban cho các môn đệ và tất cả mọi kẻ tin; “Người thổi hơi
vào các ông và bảo: “anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Thế là từ nay, trong niềm tin vào
Giê-su Ki-tô phục sinh, tất cả các môn đệ đều nhận được một sức sống mới! Họ trở thành
những con người mới, không chỉ vì họ sẽ sống vẹn sạch tinh tuyền, nhưng chính yếu là vì,

từ nay họ được thông phần sâu xa vào tình yêu cứu độ của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết
và sống lại cho họ.
Cùng với sức sống này, họ được trao cho một sứ mệnh quan trọng: “Anh em tha tội cho ai,
thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. Nếu trước đây, khi nói
cho Phê-rô cùng một câu này (xem Mt 16:19) Đức Giê-su có thể ngụ ý về một quyền bính
nào đó, thì bây giờ, khi quyền này được ban cho hết mọi môn đệ (cũng là cho mọi Ki-tô
hữu) thì ý nghĩa của nó lại càng trở nên hiển hiện hơn: sau khi nhận lãnh Thánh Thần tình
yêu, sứ mệnh của môn đệ phải là tha và cầm giữ như chính Đức Ki-tô, Đấng đã chết và
sống lại từng làm. Điều này có nghĩa là từ nay sứ mệnh đích thực của các ông là mang đến
cho trần gian một nền công lý mới: công lý của nhân từ và tha thứ như chính Đức Ki-tô
Thập Giá và Phục Sinh đã thứ tha, và của cầm giữ như chính Đấng cứu độ đã cầm giữ. Tắt
một lời, đó là nền công lý của lòng từ bi nhân ái và của xót thương, thứ công lý không thể
chối cãi của Thập Giá và Phục Sinh, thứ công lý mà chỉ những ai đón nhận Thánh Thần
tình yêu mới có thể trao ban. Các môn đệ của Đức Ki-tô Phục Sinh, và mọi Ki-tô hữu, là
những người duy nhật trên trần được trao vào tay thứ công lý đó, để từ nay cùng với
Người họ thi hành việc xét xử trần gian trong cách thức này.
Lúc này đây, tôi chân thành gửi tới các anh chị em tân tòng lời chúc mừng; ngoài việc nhờ
bí tích rửa tội được thanh tẩy nên tinh trắng, anh chị em đã nhận được Thánh Thần tình
yêu, đã được ban cho một thứ uy quyền vượt lên trên mọi uy quyền, đó là uy quyền của
lòng thương xót và nhân ái của Đấng Phục Sinh. Giữa một thế trần tội lỗi và lầm lạc, kể từ
khi gia nhập vào cộng đoàn Hội Thánh là đoàn thể những người được Đấng đã chết và
sống lại cứu chuộc, anh chị em được trao cho quyền lực cầm cân nảy mực xét xử nhân
loại, không với sự công minh hà khắc nhưng với công chính của lòng nhân ái xót thương.
Chúa Nhật Áo Trắng hôm nay, ngày của anh chị em tân tòng, được Đức Thánh Cha Gio-
an Phao-lô II chọn làm ngày của Lòng Thương Xót Chúa thật chí lý lắm thay! Nếu Thập
Giá và Phục Sinh là biểu hiện rõ ràng nhất của lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa, thì
những ai tuyên xưng niềm tin này cũng đương nhiên phải trở thành con cái của lòng từ bi
nhân hậu đó.
Lạy Chúa Phục Sinh, xin thổi hơi Thánh Thần tình yêu vào con, để con cũng có quyền tha
thứ và cầm giữ như Chúa – Đấng Cứu Độ. Hơn nữa, là linh mục của Hội Thánh Chúa, xin
cho con biết luôn trở thành tiếng nói cho mọi người trần thế, nhất là những người tội lỗi,
về thứ công lý mới này của Thập Giá và Phục Sinh. Xin cho con trong mọi hoàn cảnh luôn
trở thành dấu chỉ và người mang đến cho nhân loại thứ quyền lực và công lý mới của
Thập Giá: quyền lực và công lý của lòng thương xót vô biên. A-men.
 
1. Thánh Toma và vết thương lòng thương xót Chúa
Chúa nhật lễ Lòng thương xót Chúa 2013
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Nói đến vết thương, ai cũng rùng mình không muốn nhìn, chứ chưa nói tới đụng chạm
vào. Vì sợ máu chảy cùng gây ra đau đớn. Nhưng Thánh Tông đồ Toma lại nằng nặc đòi
cho bằng được đụng chạm xỏ ngón tay vào vết thương của Thầy mình.
Một đòi hỏi táo bạo phiêu lưu mạo hiểm!
Thông thưòng thân xác hình hài diện mạo, tiếng nói, mầu da tóc cùng cá tính của một
người là những đặc điểm giúp dễ nhận ra người đó hơn cả. Nhưng với Thánh Toma lại
khác. Theo Ông những vết thương nơi thân xác Thầy Giêsu mới là đặc điểm giúp Ông
nhận ra Thầy mình.

Vì thế Ông qủa quyết với các Bạn Tông đồ:“ Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người,
nếu tôi không cỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi
chẳng có tin.“ ( Ga 20, 25.)
Một người có tầm nhìn suy nghĩ khác lạ không giống ai. Nhưng lại ẩn chứa một sự gì sâu
xa bí nhiệm.
Vậy Ông Thánh Toma là ai, và đòi hỏi cùng suy nghĩ khác lạ của Ông mang ẩn chứa sứ
điệp đức tin gì?
1. Thánh Toma Điđymô
Trong Hội Thánh Công giáo có nhiều Thánh cùng tên Toma, như Thánh Toma Aquino,
Toma Morus… Nhưng vị Thánh Toma và vết thương Thầy Giêsu là một trong 12 Thánh
Tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn kêu gọi ngay từ lúc đầu Ngài ra đi giảng đạo.
Thánh Tông đồ Toma đã được học nghe Chúa giảng dậy, cùng chứng kiến những phép lạ
Chúa làm, cùng sống trải qua cuộc đau thương khổ nạn của Chúa, được nhìn thấy Chúa
Giêsu đã sống lại, Chúa trở về trời và được tiếp nhận trực tiếp Đức Chúa Thánh Thần hiện
xuống ngày lễ Ngũ tuần.
Sau đó Thánh Tông đồ Toma đã vâng mệnh Chúa Giêsu, sau khi Ngài trở về trời, ra đi rao
giảng nước Thiên Chúa, thành lập Hội Thánh ở chân trời vùng Á Châu bên nước Ấn Độ.
Không có sử sách nào ghi chép về nơi chốn cùng ngày tháng sinh ra của Thánh Toma.
Chúa Giêsu kêu gọi Toma làm Tông đồ ở Galilea nước Do Thái, khi đó Ông đang là một
bác thuyền chài đánh cá ở sông hồ. Tên Toma trong danh sách 12 Tông đồ Chúa Giêsu nơi
ba Thánh sử Phúc âm Matheo (10,3), Maco ( 3,18) và Luca (6,15) được nói đến bên cạnh
Thánh Tông đồ Matheo, còn trong sách Công vụ Tông đồ ở bên cạnh Thánh Philippus (
Cv 1,13).
Tên Toma có nguồn gốc từ tiếng Do Thái mang ý nghĩa là sinh đôi. Trong phúc âm theo
Thánh Gioan Ông được gọi là Toma Điđymô, theo tiếng Hylạp cũng có nghĩa là sinh đôi
(Ga 11,16; 20,24)
Hội Thánh Công gíao Roma mừng lễ kính Thánh Toma Tông đồ vào ngày 03.Tháng Bảy
hằng năm. Giáo Hội Chính Thống mừng lễ Thánh Toma vào Chúa nhật thứ hai sau lễ
Chúa phục sinh.
Con đường theo làm môn đệ Chúa Giêsu của Toma cũng đã trải qua giai đoạn phải quyết
tâm chọn lựa cùng chia sẻ với Thầy mình, và đòi Thầy mình mạc khải cho biết Thầy mình
là ai.
. Con đường theo chân Chúa
Không biết khi Chúa Giêsu kêu gọi Toma, và những vị khác làm thành nhóm 12 Môn đệ
đầu tiên của Ngài, họ đã có ý nghĩ về con đường đời sống, cùng công danh sự nghiệp trong
nước Thiên Chúa như thế nào?
Thánh Toma khi nghe Chúa Giêsu nói đến nỗi đau khổ cùng nguy hiểm, Ngài sẽ phải gánh
chịu trong đời sống khi lên Giêrusalem, Ông đã mạnh dạn nói cùng các anh em Tông đồ:
„Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để chịu chết với Thầy „ ( Ga 11, 16.)
Đức nguyên Thánh Cha Benedicto XVI. đã có suy tư về cung cách này của Thánh Toma „
Đó là một qủa quyết của lòng trung thành một mực theo chân Chúa cho dù phải đi tới đâu.
Đây là mộ ví dụ điển hình trong mối tương quan theo chân Chúa: cùng sống, cùng chết,
cùng cư ngụ ở trong trái tim người như Người ở trong trái tim ta.“
Thánh Toma khi nghe Chúa Giêsu thầy mình nói đến sự thương khó cái chết gần kề của
Ngài, Ông một mặt nói ngay lời tuyên xưng lòng trung thành của mình. Thầy đi đâu, con
theo tới đó (Ga 14,4.) Và Ông cũng thắc mắc hỏi Thầy mình ngay, nhưng chúng con
không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con có thể biết con đường đó?

Câu hỏi của Toma, cũng theo Đức nguyên Thánh Cha Benedicto XVI. „tương đối ở bình
diện hiểu biết thấp. Nhưng lại là dịp lúc Chúa Giêsu nói lên những lời mạc khải về chính
Ngài, và những lời đó trở nên thời danh cho mọi thế hệ :“ Thầy là con đường, là sự thật và
là sự sống“ ( Ga 14,6).
Rồi mỗi khi chúng ta nghe hay đọc những lời này, chúng ta có thể nghĩ rằng như đang
đứng bên Thánh Toma nghe Chúa Giêsu nói với mình như Ngài đã nói với Thánh Toma
khi xưa. Và chúng ta cũng được đặt ra câu thắc mắc của mình xin Chúa Giêsu cắt nghĩa
cho hiểu, điều mình chưa hiểu. Đây là cung cách cầu nguyện với Chúa Giêsu trong sự tin
tưởng cùng với sự giới hạn hiểu biết của mình.“
Xưa nay trong đời sống đạo Công giáo, khi nói đến Thánh Toma Tông đồ không ai có thể
quên bỏ qua mà không nghĩ tới, như tường thuật trong Phúc âm Thánh Gioan, về sự hoài
nghi của Thánh Toma – trong dân gian vẫn quen gọi là Toma yếu kém lòng tin – , và từ sự
hoài nghi đó dẫn đưa Ông tới đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
. Vết thương lòng thương xót Chúa Giêsu
Anh em Tông đồ kể thuật lại cho Ông nghe về việc Chúa Giêsu sống lại hiện ra với họ.
Nhưng Ông không tin vào những lời kể đó. Ông muốn chính mình phải được nhận ra Chúa
Giêsu theo cung cách của Ông: Đụng chạm vào vết thương lòng thương xót của Thầy
Giêsu.
Ông muốn được đụng chạm vào những vết thương của Thầy Giêsu.Vì với Ông đó là dấu
ấn đặc điểm của Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên thập gía.
Ông không muốn đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh chỉ ở tầng bên trên. Nhưng cần phải đi
sâu vào tận vết thương tình yêu của Chúa.
Với Ông, những vết thương đóng đinh nơi Chúa Giêsu là hình ảnh lòng thương xót của
Ngài đối với con người, cùng quan trọng cho đức tin vào Chúa Giêsu.
Chúa Giesu hiện ra cho Ông được nhìn thấy những vết thương nơi thân thể Ngài, sự hoài
nghi nơi Ông liền biến ngay. Và từ đó đã dẫn đưa Ông tới đức tin vào Chúa Giêsu phục
sinh qua lời tuyên tín và cũng là lời cầu nguyện thâm sâu: Lạy Chúa, lạy Chúa của con. (
Ga 20,28.)
Đức nguyên Thánh Cha Benedicto XVI. trong bài giáo lý về Thánh Toma Tông đồ đã có
suy tư: „ Trường hợp của Thánh Tông đồ Toma với chúng ta có ít nhất ba điều quan trọng:
Thánh Toma mang lại niềm an ủi cho chúng ta trong những khi chúng ta gặp hoài nghi;
Thánh Toma chỉ cho chúng ta, hoài nghi có thể dẫn đưa tìm đến ánh sáng giúp vượt qua sự
bấp bênh mù mịt, và như Thánh Toma, những lời của Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta đến ý
nhĩa chính thật của đức tin . Đồng thời cũng giúp chúng ta can đảm, cho dù có những khó
khăn hoài nghi, tiếp tục trung thành theo Chúa.“

home Mục lục Lưu trữ