Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 117

Tổng truy cập: 1427562

HẠNH PHÚC NGƯỜI TIN VÀO THIÊN CHÚA

HẠNH PHÚC NGƯỜI TIN VÀO THIÊN CHÚA

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

“Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa” (Gr.17, 5). Làm sao có thể tin tưởng nơi người đời, khi mà kinh nghiệm sống cho thấy bao nhiêu người hứa yêu nhau trọn đời, thề nguyền trọn đời chung thủy, rồi với thời gian con người đã thay đổi. Bao nhiêu người con không được sống trong mái gia đình có cha có mẹ, vì cha mẹ các em đã “chia tay”. Lời hứa “trọn đời yêu nhau” “trọn đời chung thủy” “cho dù núi chuyển sao dời anh (em) vẫn mãi mãi yêu em (anh)” đã tan đi như mây khói. Kinh nghiệm sống cũng cho thấy có bao nhiêu người tin tưởng nơi con người, nơi tình bạn, nơi tình gia đình, nhưng thực tế cũng cho thấy có bao nhiêu phản bội, bao nhiêu lường gạt, đặc biệt về khía cạnh tiền bạc! Làm sao có thể tin tưởng được nơi người đời, làm sao có thể tin được nơi con người? Cả người trong gia đình, cả vợ cả chồng, cả con cái cha mẹ còn chưa tin được nhau, thì làm sao có thể tin tưởng nơi người đời.

Ngay cả chính bản thân tôi, đôi khi tôi còn chẳng tin vào mình được nữa, thì làm sao có thể tin nơi người khác. Có bao lần tôi hứa, rồi tôi phản bội. Có bao lần tôi dốc lòng không làm điều xằng quấy, thế rồi tôi lại làm. Tôi hứa với Thiên Chúa sau mỗi lần phạm tội, và tôi đã lỗi phạm lại bao lần! Tôi muốn lắm, tôi muốn thành người tuyệt vời, không sa ngã vào điều này điều kia, thế mà tôi lại đã bao lần vấp phạm sa ngã. Có bao người chán nản và thất vọng về chính mình, vì mình đã không làm được điều mình dốc lòng, điều mình hứa với chính mình và với Thiên Chúa. Tôi còn chưa tin vào được chính mình, thì làm sao tôi có thể tin vào người khác, cho dù người đó là ai chăng nữa! Lời sách tiên tri Giêrêmia thật rất đúng: “khốn thay kẻ tin tưởng nơi người đời”.

Thế nhưng vấn đề không chỉ đơn sơ như vậy. Nếu không tin vào người đời, nếu không tin vào con người, thì liệu mình có thể sống hạnh phúc không? Nếu không tin vào con người, thì mình sống với ai? Làm sao sống có thể hạnh phúc được? Thực sự, tin vào Thiên Chúa mới làm cho con người được hạnh phúc thật. Chỉ khi nào mình tin vào Thiên Chúa, mình mới có thể tin vào mình và có thể tin vào con người. Người ta có thể có những hình ảnh méo mó lệch lạc về Thiên Chúa như coi Ngài là Con Tạo “đành hanh”, một Thiên Chúa nghiêm khắc chỉ lo rình rập để bắt lỗi và hành khổ con người. Nếu một người có cái nhìn sai lệch như vậy về Thiên Chúa, thì họ cũng không thể sống hạnh phúc được; còn nếu một người nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương, Ngài yêu thương con người và yêu thương mình vô cùng, Ngài luôn muốn con người được hạnh phúc, luôn tìm cách giúp đỡ con người, thì người đó sẽ dễ dàng sống bình an hạnh phúc.

Thiên Chúa là tình yêu. Ngài làm mọi sự vì yêu thương. Ngài sẵn sàng làm tất cả cho tôi, để tôi được an bình hạnh phúc thật. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho tôi, dù tôi có xúc phạm đến Ngài thế nào đi nữa. Ngài luôn tôn trọng tự do của tôi, nhưng Ngài vẫn luôn tìm cách lôi kéo tôi trở lại đường ngay nẻo chính. Thiên Chúa không chỉ yêu thương tôi, mà còn yêu thương tất cả mọi người như yêu thương chính Con Một yêu quý của Ngài. Ngài luôn ban ơn trợ lực, luôn mời gọi để con người hoàn lương trở lại với Ngài và với anh chị em mình.

Tự sức tôi, tôi không thể tin vào tôi; nhưng nếu tôi tin vào Thiên Chúa, nếu tôi tin Ngài là Thiên Chúa tình yêu, Ngài luôn theo tôi dù tôi hoang đàng thế nào chăng nữa, thì lúc đó tôi có thể tin vào tôi. Tôi tin vào tôi vì tôi tin vào Thiên Chúa, vì tôi tin Thiên Chúa yêu thương và sẽ giúp tôi vươn lên và trở thành người tốt. Ngài vẫn trung thành với tôi, dù tôi không trung thành với Ngài; Ngài vẫn yêu thương tôi, dù tôi không yêu thương Ngài; Ngài vẫn kiên trì với tôi và với anh chị em tôi, dù tôi không kiên trì với tôi và với họ; Ngài vẫn hy vọng và chờ đợi nơi tôi và nơi con người cho dù tôi không hy vọng nơi chính tôi và họ. Ngài là Thiên Chúa tình yêu, Ngài quyền năng trong yêu thương, nên Ngài có thể biến đổi tôi và biến đổi anh em tôi. Chính vì tin vào Ngài, mà tôi có thể tin vào anh em tôi. Ngay lúc này, người anh chị em tôi có thể dở và ngoan cố, nhưng trong tương lai có thể khác. Thiên Chúa toàn năng, Ngài đang mời gọi người anh chị em tôi trở lại, và mong họ trở thành người khác, và chắc Ngài sẽ thành công. Ngay lúc này, có thể là Ngài chưa thành công, nhưng chắc Ngài sẽ thành công, vì nếu không Ngài chẳng còn là Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.

Khi thấy mình dở và cảm thấy mình không có nghị lực để sống tốt, thì cũng đừng sợ nhưng hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa sẽ giúp tôi trở thành người tốt, và ngay cả trở thành người tuyệt vời. Người anh chị em tôi quá dở và qua kinh nghiệm, người anh chị em này không đáng tin một chút nào nữa! Đừng sợ nhưng hãy tin vào Thiên Chúa, để rồi còn có thể hy vọng nơi họ, vì Thiên Chúa là tình yêu, Ngài quyền năng và Ngài vẫn đang mời gọi và giúp đỡ người anh chị em đó trở lại với Ngài. Nếu mỗi người tin vào Thiên Chúa, thì có thể tin vào anh chị em mình. Phút cuối cùng, chắc Thiên Chúa sẽ thắng. Tôi có thể không nhìn thấy giây phút chiến thắng này của Thiên Chúa, nhưng tôi tin chắc điều đó sẽ xảy ra. Nếu tôi là người mà còn yêu thương người anh chị em mình như vậy, không lẽ Thiên Chúa là Cha họ (vì nếu không nhờ Ngài thì họ đâu có thể hiện hữu) không yêu thương họ bằng tôi sao?!

Thiên Chúa đã yêu thương con người đến độ ban Đức Yêsu Kitô cho con người. Ngài đã chết và đã sống lại. Nếu tôi tin Đức Yêsu là Con Thiên Chúa nhập thể, tôi nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người đến độ như thế nào! Đức tin là một hồng ân vô cùng lớn, và là yếu tố giúp con người có thể sống an bình hạnh phúc; vì qua đức tin con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.

Một người nghèo, không bám víu vào tiền bạc, chỉ trông chờ tất cả nơi Thiên Chúa, sẽ là một người có phúc. Người giầu có về tiền bạc nhưng có tinh thần khó nghèo, nghĩa là người không cậy dựa vào tiền bạc mà vẫn chỉ trông chờ tất cả nơi Thiên Chúa, thì vẫn là người được chúc phúc. Phúc cho anh em là những người nghèo!

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Bạn có kinh nghiệm nào cho thấy Thiên Chúa yêu thương bạn không? Xin chia sẻ.

2. Bạn có tin rằng Thiên Chúa có thể biến đổi bạn và biến đổi người anh chị em mình không? Xin giải thích quan điểm của bạn.

 

14. Giáo lý của Tân Ước

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa - của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Các Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy Ðức Giêsu khởi sự truyền giáo. Người từ giã gia đình để đi vào xã hội (tiệc cưới Cana, Chúa Nhật II). Người đến hội đường Nadarét tự giới thiệu là vị tiên tri mà Thiên Chúa hứa gửi đến (Chúa Nhật III). Kẻ đồng hương phủ nhận Người (Chúa Nhật IV) khiến chúng ta thấy trước công việc của Người rồi sẽ đi tới đâu. Nhưng Ðức Giêsu đã chọn các tông đồ để sứ mạng của Người được đảm bảo trong tương lai (Chúa Nhật V). Hôm nay (Chúa Nhật VI) bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy chính nội dung giáo lý của Người, cũng là giáo huấn trường tồn trong Hội Thánh. Nó đã được chuẩn bị trong Cựu Ước, như bài sách Giêrêmia có thể cho chúng ta thấy. Và nó chỉ có thể được tin theo nếu chắc chắn ở việc Ðức Giêsu đã sống lại để trở thành người đi trước chúng ta vào hạnh phúc trường sinh.

Bài thư Phaolô hôm nay ngắn nhưng rất quan trọng. Chúng ta hãy suy niệm Lời Chúa để nhận ra những bài học rất hiện đại cho đời sống con người.

1. Sự khôn ngoan của Cựu Ước

Giêrêmia là một tiên tri. Ông là một trong bốn tiên tri lớn còn lại một văn phẩm. Ở đây lời lẽ của ông không có vẻ "tiên tri" bao nhiêu. Ðành rằng vẫn có công thức mà các tiên tri vẫn dùng để khai ngôn: "Lời Chúa phán như thế này". Nhưng sau đó tác giả đã sử dụng lối văn khôn ngoan, đưa ra ý kiến phải ăn ở thế nào cho được hạnh phúc và khỏi bất hạnh.

Thực ra thì lối văn này không phải là không bao giờ được các tiên tri dùng. Môsê vẫn dùng nó khi vạch ra cho con cái Israen thấy rằng họ luôn luôn đứng trước hai con đường: một đường dẫn đến sự sống và một đường dẫn đến sự chết. Người ta được tự do lựa chọn một trong hai con đường ấy. Cũng là hai con đường hạnh phúc và vô phúc. Lối văn tiên tri thường không mặc hình thức trình bày gẫy gọn ấy... Nó thường phong phú và tâm tình hơn. Nhưng cuối cùng nó thôi thúc người ta phải lựa chọn giữa đường dẫn tới sự sống và đường đưa tới sự chết. Ðoạn tiên tri Giêrêmia hôm nay là một khúc nằm trong toàn bộ tác phẩm mang tên ông. Nó mặc hình thức lối văn khôn ngoan, nhưng vẫn giữ giọng tiên tri, vì nó bắt đầu với những câu tuyên án mà các tiên tri vẫn phải nói để sửa sai và phá đổ.

Giêrêmia loan báo tai họa cho kẻ tin tưởng vào người đời và trở lòng đối với Chúa. Ông có nhắm cụ thể vào ai không, hay chỉ nêu lên những lẽ khôn ngoan ngàn đời? Chắc chắn nhiều người nghe ông nói thời bấy giờ, đã giật mình và khó chịu. Họ cảm thấy bị nhắm thật sự. Vì ở thời Giêrêmia con cái Israen đang sa sút lòng đạo đức. Nhất là bậc vua Sêđêcias (597-586 trước CN). Nhà vua không chịu nghe lời tiên tri. Cứ ăn ở theo xác thịt. Rồi thấy roi Chúa bắt đầu quất lên, thay vì thống hối ăn năn trở về với Người, ông đi tìm sức mạnh nơi các liên minh quân sự. Ông không đang trở lòng với Chúa và tin tưởng vào phàm nhân sao? Ông bỏ chỗ cậy dựa vào Thiên Chúa cao cả, để cầu cứu với những con người xác thịt. Và không riêng gì Sêđêcias. Hầu hết hàng đầu mục dân bấy giờ đều như vậy. Chính sách của Israen bấy giờ là coi thường đường lối của Chúa và tin tưởng ở mọi tổ chức loài người.

Giêrêmia đến làm sứ mạng tiên tri... Ông nguyền rủa chính sách ấy. Ông loan báo tai họa sẽ ập đến trên những kẻ bỏ Chúa như vậy. Họ sẽ như cỏ cây nơi sa mạc, làm sao có được hạnh phúc? Nắng sẽ thiêu, đất sẽ đốt, cỏ sẽ rụi. Khác hẳn với con người đặt tin tưởng vào Chúa. Họ như cây trồng bên bờ suối. Rễ sẽ mát, lá sẽ tươi, trái sẽ nhiều. Ðó là những hình ảnh quen thuộc mà Kinh Thánh vẫn dùng để mô tả định mệnh của kẻ dữ, người lành. Giêrêmia lặp lại những hình ảnh ấy để khẳng định niềm tin của mình và kêu gọi mọi người trở về với Chúa.

Ðó chỉ là sáo ngữ hay là những lời chân thật? Chúng ta biết Sêđêcias đã kết thúc cuộc đời thảm hại như thế nào: ông bị bắt, bị khoét mắt, bị dẫn đi lưu đày và con cái ông đã bị tàn sát thảm thương (Gr 39,1-10).

Giêrêmia đã không thấy trước hoàn toàn như vậy đâu. Nhưng ông thâm tín về chung cuộc bi đát của những kẻ bất trung với Chúa. Ông nói lên những lời khôn ngoan và tiên tri cho mọi người và mọi thời. Chẳng bao giờ những lời này mất giá trị. Nhưng chúng ta cũng có những giáo huấn rõ ràng và đầy đủ hơn nữa. Chính Ðức Giêsu đã đến dạy chúng ta. Và thánh Luca đã ghi lại cho Hội Thánh trong bài Tin Mừng hôm nay.

2. Giáo lý của Tân Ước

Ðức Giêsu bấy giờ ở trên núi xuống... Người vừa qua một đêm cầu nguyện cùng Chúa Cha... Và sáng ngày, Người đã gọi 12 môn đệ lại và đặt họ làm tông đồ. Bấy giờ Người xuống khỏi núi, không những có đoàn 12 và nhiều môn đệ khác đi theo, mà còn có rất đông dân chúng đang đứng chờ ở một chỗ đất bằng và rộng. Họ từ khắp nơi kéo đến, như muốn đươc chia sẻ những gì mà Ðức Giêsu đã ban cho các tông đồ của Người khi ở trên núi. Quả vậy, thánh Mátthêu nói rằng Ðức Giêsu đã giảng về các Phúc thật khi ở trên núi và bài giảng đó được mệnh danh là bài giảng trên núi. Nó lại kê khai 8 điều phúc hứa cho những người nghe Lời Chúa, nên được gọi là bài giảng 8 mối phúc thật. Ở đây chúng ta chỉ thấy có 4 điều phúc và thấy Ðức Giêsu đã tuyên bố những điều này ở một chỗ đất bằng phẳng và rộng. Là vì thánh Luca là tác giả có tinh thần phổ quát, muốn cho hết mọi dân tộc được chia sẻ tin mừng cứu độ. Chỗ đất bằng và rộng gợi lên mặt biển bao la mà tác giả đã nhiều lần vượt qua với thánh Phaolô để mang tin mừng đến cho các dân tộc. Hôm nay các dân tộc cũng hiện diện chỗ đất bằng và rộng này vì có đông đoàn lũ từ Giêrusalem và nhiều tỉnh kéo đến.

Chắc chắn không phải Luca đã bớt xén bài giảng của Ðức Giêsu, khiến 8 mối phúc thật chỉ còn có 4. Chúng ta phải nói rằng cả thánh Luca và thánh Mátthêu đã ghi lại toàn bộ bài giảng của Chúa qua trung gian một bản văn đã có trước bản văn của các ngài. Bản văn này ghi 4 điều phúc cho kẻ nghèo, kẻ đói, kẻ khóc, và kẻ bị bắt bớ vì đạo. Mátthêu và Luca cũng chép lại cả 4, nhưng cả hai muốn quảng diễn thêm. Mátthêu thì phân 4 thành 8; còn Luca thì nhân 4 với 2, tức là dùng thêm hình thức tiêu cực, nghĩa là sau khi nói đến 4 điều phúc, Luca nói đến 4 điều vô phúc cho những kẻ mâu thuẫn với 4 hạng người nghèo, đói, khóc lóc, và bị ghét bỏ, thì bốn điều vô phúc lại đe dọa những kẻ giàu, no, cười cợt và được tâng bốc. Như vậy, thể văn của Luca gần với lối văn khôn ngoan như chúng ta nhìn thấy trong bài sách Giêrêmia. Ở đây chúng ta cũng đã thấy có 2 phần: đoạn trước nói về số phận những kẻ bỏ Chúa để chạy theo thế gian. Ðịnh mệnh của họ ngược hẳn với tương lai của những người đặt hết tin tưởng vào Chúa, được trình bày ở đoạn sau. Nhưng chúng ta hãy thôi nói về hình thức văn chương, để tập trung suy nghĩ vào tư tưởng của bài Tin Mừng hôm nay.

Luca là một y sĩ và là tác giả của lòng Chúa thương xót nhân loại. Ngay từ câu đầu tiên, chúng ta đã nhìn thấy một lòng thương xót rất cụ thể. Luca viết rằng: Chúa phán: Phúc cho những kẻ khó nghèo; chứ không nói như Mátthêu: Phúc cho những kẻ có tinh thần nghèo khó. Có thể nói được rằng, theo Luca, khi ấy Ðức Giêsu nhìn vào môn đồ và tuyên bố như trên. Lời của ngài có tính cách rất chân thật vì các môn đệ kia thật sự đã khó nghèo... Và khi ghi lại Lời Chúa, Luca cũng thấy trước mắt chỉ có những kẻ nghèo khó đã tin vào Phúc Âm và đang làm nên Hội Thánh của Chúa ở trần gian. Nói cách khác theo Luca, Chúa tuyên bố những người nghèo khó trong xã hội là những người có phúc. Còn những người giàu có, chính là những hạng vô phúc.

Và như vậy Luca tỏ ra trung thực với truyền thống các tiên tri trong Cựu Ước. Vì các ngài luôn loan báo những kẻ nghèo khó sẽ được rao giảng Tin Mừng. Nay Ðức Giêsu mang Tin Mừng đến; những người có phúc nhận lãnh chính là những thành phần nghèo khó trong xã hội. Chính Người cũng đã sinh ra giữa đám người này. Họ là những người đầu tiên được loan báo ơn cứu độ đã đến, khi sứ thần Thiên Chúa hiện ra với mục đồng trong đêm Chúa Giáng Sinh, Nhiều lần Người khẳng định Tin Mừng và của cải không thể đi với nhau, vì nhất thiết họ sẽ mê của và bỏ Chúa, hoặc ngược lại người ta sẽ đi theo Chúa và bỏ hết mọi sự.

Ðặc biệt nhất trong sách Luca có câu chuyện người phú hộ và Lazarô, một kẻ ăn mày ngồi ở ngoài cửa nhà ông (16,19-32). Không phải người giàu có ác tâm gì với Lazarô. Nhưng khi hai người chết, số phận đã đảo ngược hẳn lại. Lazarô được đưa vào cung lòng Abraham, còn người phú hộ phải ở nơi đau đớn. Lý do chỉ vì xưa kia ông đã sung sướng và Lazarô đã khổ; bây giờ Lazarô được an ủi và ông phải đau đớn. Dĩ nhiên chúng ta không nên cắt nghĩa một cách máy móc. Nhưng phải thành thật công nhận rằng Kinh Thánh vẫn có truyền thống chiếu cố những thành phần nghèo khó trong xã hội và thường phủ nhận nếp sống của những người giàu sang.

Sách Tin Mừng của Luca lại càng rõ rệt về vấn đề này (xem 16,13; 18,22.25; 12,30; 8,14...) Có thể vì như sách ấy viết ở đầu, tác giả đã tra cứu kỹ lưỡng về cuộc đời của Chúa Cứu Thế và thấy rõ thái độ ưu ái của Người đối với thành phần nghèo khổ trong xã hội. Và cũng có thể vì yêu mến Hội Thánh và thấy Hội Thánh gồm toàn những thành phần khổ sở nhất trong xã hội, tác giả thâm tín quả thật Nước Trời là của những kẻ nghèo khó.

Một bằng chứng nữa về việc tác giả Luca đã hiểu những con người nghèo khó đây một cách cụ thể là cách người trình bày các mối phúc thật sau. Khác với bản văn có trước mà Người với thánh Mátthêu đã sử dụng để viết lại bài giảng của Chúa, đoạn Tin Mừng hôm nay đã đổi chỗ nói về những con người đói ăn lên trước những con người khóc lóc. Và như vậy những con người nghèo khổ trước hết là những con người bây giờ túng đói. Họ sẽ được no đầy ở đời sau; nhưng bây giờ Nước Trời cũng đã là của họ rồi vì họ là thành phần những người nghèo khó. Ngược lại, những kẻ bây giờ no đủ sau này sẽ bị đói khát, như người phú hộ nọ.

Nhưng trong truyền thống của Thánh Kinh, những kẻ nghèo khó không những phải túng đói mà còn gặp rất nhiều đau khổ khác ở đời. Hiện tại họ phải khóc lóc; nhưng phúc cho họ vì họ sẽ được vui cười. Còn những kẻ bây gờ vui cười, sau này sẽ phải ưu phiền khóc lóc. Có thể nói ba mối phúc đầu làm thành một bộ và chủ yếu nhắm tới hạng người khổ sở trong xã hội mà Kinh Thánh gọi chung là những người nghèo khó. Họ sẽ được rao gaỉng Tin Mừng cho ở đời này và sẽ được bù lại ở đời sau... Nhưng khi đã lãnh nhận Tin Mừng, họ phải cẩn thận. Nếu họ bị ghét bỏ vì danh Chúa; thì họ có phúc vì họ sẽ giống các tiên tri thật. Còn nếu họ được khen lao, họ sẽ như các tiên tri giả.

Chúng ta có thể nghĩ rằng, ở đây tác giả Luca cũng đã diễn tả Lời Chúa cho một hoàn cảnh rất cụ thể. Chúa đã nói trước cho các môn đệ biết họ sẽ bị ghét bỏ, bắt bớ vì Tin Mừng... Nhưng khi Luca viết sách, có lẽ các cơn bắt đạo chưa mãnh liệt hoặc đã lặng xuống. Ngược lại, đâu đâu người ta theo Chúa cũng bị kỳ thị và gặp khó khăn. Do đó tác giả không nói đến bắt bớ mà chỉ diễn tả ý tưởng bị ghét bỏ. Và như vậy chúng ta lại có dịp phải hiểu sách Luca trong hoàn cảnh cụ thể của Hội Thánh.

Dân Chúa bấy giờ, như sách Công Vụ các Tông Ðồ cho thấy là cộng đoàn bác ái đến nỗi không còn ai nghĩ của mình có là của riêng mình nữa, nhưng đã đem chia sẻ hết cho nhau để không còn ai túng thiếu. Tuy lòng bác ái đã bắt đầu sa sút khi những kẻ muốn giữ một phần của cải lại cho mình, như vợ chồng Anania... Luca thấy rõ tiền của thật là bất lương (16,9). Người ta không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được (16,13). Thế nên phúc cho người nghèo khó vì nước Thiên Chúa là của họ.

Nhưng dân Chúa bấy giờ cũng đang gặp khó khăn với người Do Thái, nên phúc cho họ khi bị kỳ thị vì danh Chúa. Họ đang đóng vai trò của các tiên tri thật ở giữa dân được tuyển chọn. Sự khôn ngoan của Cựu Ước vì thế nay đã thuộc về họ. Họ hãy tin tưởng vào Chúa.

3. Niềm tin của chúng ta

Hoàn cảnh của chúng ta hiện nay ở trong Hội Thánh dĩ nhiên đã khác với thời thánh Luca. Nhưng những nét tả trên đây của Người về Hội Thánh vẫn còn nhiều giá trị. Mọi nơi, Tin Mừng Nước Trời vẫn đến với những người nghèo khó và những người theo Chúa thường bị ghét bỏ... Chúng ta không mong nhận được bù đắp và phần thưởng ở đời này, vì đúng như lời thánh Phaolô hôm nay nói: Nếu chúng ta đặt mối hy vọng vào Ðức Kitô vỏn vẹn cho lúc sinh thời này thôi thì quả thật chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong tất cả thế gian. Không, vì chúng ta tuyên xưng Ðức Giêsu đã sống lại từ cõi chết, thì chúng ta cũng chắc chắn rằng những kẻ chết trong Người cũng sẽ sống lại.

Tuy nhiên ngay ở trần gian này, mỗi khi cử hành phụng vụ Thánh Thể, hơn bao giờ hết, chúng ta lại thấy được ở trong Nước Trời. Và đó không phải là một hạnh phúc nhỏ đâu... Nói cách khác, đời sống Kitô hữu hiện nay của chúng ta đang thể hiện những lời Luca đã viết và đã được sự khôn ngoan của các tiên tri ngày xưa báo trước. Về mặt xã hội chúng ta là những thành phần khó nghèo và đang phải phấn đấu nhiều, nhưng hiện nay nhờ mầu nhiệm Ðức Giêsu Phục Sinh, không những chúng ta được an ủi vì đang ở trong Nước Trời, nhưng hơn nữa, chúng ta còn nắm vững niềm tin về hạnh phúc bất diệt sau này, khi những kẻ chết trong Ðức Kitô sẽ sống lại cho sự sống muôn đời. Và không nói gì xa, cộng đoàn phụng vụ chúng ta đang ở đây lúc này, là gì sánh với xã hội loài người? Nhưng ai trong chúng ta không đang cảm thấy được hạnh phúc tràn trề vì đang được tiếp xúc, được vây quanh, được ở trong Nước Trời của Tin Mừng cứu độ? Và mầu nhiệm Nước Trời cử hành bây giờ không là bảo chứng cho việc sống lại mai ngày và hạnh phúc trường cửu sao? Do đó chúng ta hãy yêu mến phụng vụ, hãy cử hành thánh lễ sốt sắng đầy niềm tin, để luôn luôn trong cuộc sống hằng ngày chúng ta vẫn nhớ mình đang có hạnh phúc Nước Trời và sự sống muôn đời nhờ Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã sống lại từ cõi chết. Chúng ta hãy đứng lên tuyên xưng niềm tin ấy.

 

home Mục lục Lưu trữ