Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 48
Tổng truy cập: 1440140
EPHATA:HÃY MỞ RA
EPHATA:HÃY MỞ RA (*)- Chú giải của Noel Quession
Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.
Việc mô tả những cuộc hành trình (hơn 100 cây số) không phải là ngây ngô đâu? Chúng ta thử đặt mình vào địa vị Đức Giêsu một chút. Sau khi biến bánh ra nhiều (Mc 6,31-44). Sau bài giảng thất bại về “Bánh hằng sống” (Ga 6,66), Đức Giêsu bị đám dân chúng bỏ rơi hoàn toàn. Người rời xứ Galilê và đi ra “nước ngoài” nơi người ngoại đạo ở xứ Phênixi (Mc 7,24-26) bên kia biên giới phía Bắc xứ Palettin. Tia và Xi-đon ngày nay vẫn là hai thành phố lớn của xứ Libăng. Rời xứ này, Đức Giêsu không trở về Galilê, Người đi rẽ về phía Đông Biển Hồ, vượt qua các đồi cao Gôlăng xứ Xyria và đi về phía miền “Thập Tỉnh”, bên kia sông Giođan, trong phần đầu của sa mạc từ I-rắc tới I-ran, mà ngày nay có những ống dẫn dầu từ vịnh Ba Tư chạy ngang qua. Đức Giêsu, con người thông minh, đã thích nghi với hoàn cảnh. Người biết rằng, với những đám đông chỉ có mất thời giờ? Vậy từ bây giờ trở đi, Người sẽ lo đào tạo một nhóm môn đệ nhỏ. Và để thực hiện công cuộc đó, cần phải vượt qua ranh giới Do Thái, mới dễ cảm thấy thoải mái hơn.
Chúng ta cố hình dung ra Đức Giêsu, dừng lại ở mỗi đoạn đường, ở ngoài trời, luôn có khoảng hai mười người vây quanh mười hai người nam và vài người nữ để nấu ăn quanh bếp lửa, họ kể lại những biến cố trong ngày.
Ngày nay, những khối Người, trong mọi biên giới, đã trở nên ngoại đạo. Thái độ của Đức Giêsu thật có ý nghĩa. Người làm gì khi Người sống giữa dân ngoại?
Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh.
Danh tiếng Đức Giêsu, con người hay làm phép lạ, đã lan rộng ra ngoài biên giới nước Palettin. Có một người đàn bà gốc Phêmxi, xứ Xirya đã đến mấy ngày trước, để xin Chúa chữa lành cho con gái của bà. Bây giờ lại một người câm điếc. Người ta có thể nói rằng, người ngoại đạo có lòng mở rộng đối với Chúa hơn là người Do Thái. Vậy họ đã có tai để nghe, trong khi những đám đông ở Galilê lại “điếc đối với lời của Người? Người ngoại đạo sẽ được ngồi vào bàn tiệc của Thiên Chúa, để đón nhận Bánh Hằng Sống, trong khi đại đa số dân Israel đã từ chối?
Chúng ta chớ quên rằng, Maccô viết Tin Mừng cho những cộng đoàn Kitô hữu từ’ dân ngoại quốc thuộc HyLạp – La Mã trở lại. Ong là thư ký của Phêrô. Chúng ta hiểu tại sao ông lại muốn làm cho nổi bật sự kiện Chúa đã mở rộng sứ vụ của Người cho dân ngoại. Như trong Tin Mừng Chúa nhật trước về vấn đề “Sạch và Nhơ”, chúng ta gặp lại ý hướng phổ quát của Đức Giêsu: Người không tự đóng khung trong nền văn hóa riêng biệt của Israel. Người mở rộng cửa: Giáo Hội của Người phải là Công giáo nghĩa là “đa dạng” “mở rộng” “phổ quát”. Chúng ta có thực sống như vậy không? Chúng ta không thường giữ những đặc thù thích đề cao chủng tộc của mình sao? Chúng ta không xét đoán quá cứng rắn những người có sở thích văn hóa, những cách cầu nguyện khác chúng ta sao? Trong bàn tiệc chúng ta có những một ít chỗ cho người ngoại quốc không?
Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.
Đức Giêsu làm những cử chỉ trên là có ý nghĩa, chứ không phải tình cờ. Thiên Chúa nói với chúng ta những cử chỉ đó. Chúng ta cũng điếc chăng? Những chi tiết này nói lên không gì?
Đức Giêsu dẫn người khuyết tật xa khỏi đám đông. Khi làm như vậy, Chúa đã tỏ ra khác hẳn những người làm phép lạ khác, những nhà ảo thuật Hy Lạp, luôn tìm sự phi thường. Còn Đức Giêsu, một “Thiên Chúa ẩn kín” lại trốn tránh những cái nhìn soi mói, bắt đầu sợ những đám đông ham muốn phép lạ. Người lánh ẩn như để nói với chúng ta rằng, Người sắp làm một biến cố siêu việt. Sự tránh hoạt động của Thiên Chúa là mầu nhiệm cuối cùng. Người sẽ cố gắng vô ích để xin “người ta giữ bí mật”.
Đức Giêsu làm những cử chỉ trên thân xác, hầu như gây khó chịu đối với những tâm trí chúng ta, được coi là duy linh. Ngày nay người ta có khuynh hướng xóa bỏ hình ảnh này của Đức Giêsu. Chúng ta sẽ nghĩ gì nếu có một phim ghi lại cách tự nhiên và chiếu cho chúng ta xem lại cảnh này một cách thực tế? Người dịch một lần nữa đã nghĩ nên kể lại nhẹ nhàng hơn bản văn Hy Lạp của Maccô, mà nếu dịch từng chữ, sẽ kể như sau: “Đức Giêsu thọc ngón tay mình vào tai người điếc, và sau khi đã nhổ nước miếng, Người sờ vào lưỡi người câm, và sau khi nhìn lên trời, Người thở dài”.
Vâng, những bí tích, những dấu chỉ của Đức Giêsu đều là những cử chỉ “thuộc thân xác”. Thiên Chúa đã có thể ban hồng ân của Người cho chúng ta “từ xa” một cách thiêng liêng, nhưng thực sự Người đã quyết định “tiếp xúc” với chúng ta nhờ nhân tính Con của Người đã nhập thể. Nếu chúng ta cho là điều xỉ nhục để đưa tay ra “đụng chạm” đến Mình Thánh Đức Giêsu, thì chính là vì chúng ta đã mất ý thức về phẩm giá của “Thân xác”, là dụng cụ tuyệt vời để liên lạc và yêu thương. Trong Nhiệm Cục Nhập Thể (Economie de l’incarnation) ân sủng thiêng thánh nhất, vô hình nhất phải qua những cử chỉ tầm thường “cụ thể” là những bí tích của Đức Giêsu. Người câm điếc lúc bấy giờ chắc không bị phân tâm trước những thuyết coi thường thể xác của chúng ta, và anh ta cảm thấy những cử chỉ tiếp xúc đơn giản và tự nhiên của Đức Giêsu như mạc khải sự trìu mến của Người: Ngón tay của Chúa trong lỗ tai bị bịt kín của anh, nước miếng của Người trên lưỡi bị thắt buộc của anh.
Lạy Chúa Giêsu, nhờ Thánh Thể của Chúa, xin chữa lành tâm hồn con người ngày nay. Các giáo phụ đầu tiên của Giáo Hội, đối với giáo dân gần thiên nhiên hơn chúng ta, đã khuyên các Kitô hữu lúc bấy giờ rước lễ dưới hai hình thức, lấy rượu đã truyền phép mà môi miệng họ vừa hiệp thông nơi Chén Thánh, để bôi lên mắt và tai của mình, nhằm thánh hóa những cơ quan này? Bây giờ không cần phải trở lại những tục lệ của các thế kỷ đầu tiên, nhưng ít nhất chúng ta chớ làm nhẹ đi cử chỉ rước Mình Thánh Chúa. Chúng ta hãy nhận “lấy” và “ăn” theo như Chúa đã nói. Điều đó rất thích hợp với bản chất con người của chúng ta, cả về thể xác lẫn linh hồn.
Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói.
Cử chỉ này cho ta thấy rằng, quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện không phải là một sự can thiệp y khoa bình thường. Còn về lời than thở của Đức Giêsu không những chỉ hiểu rang đó là xách biểu lộ lòng trắc ẩn đối với người bệnh, mà còn là một chuyển động nơi toàn thân Đức Giêsu đang xúc động mãnh liệt để kêu cầu Thiên Chúa, khi nhận thấy một “nỗ lực”, một “nhiệm vụ khó khăn”, một đối kháng rất ghê gớm cần phải vượt thắng. Đức Giêsu thực sự đang “làm lại” công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Con nói bị hư hỏng sắp tìm lại được vẻ huy hoàng nguyên thủy của mình.
Ép-pha-tha, nghĩa là: hãy mở ra!
Lời nói của Đức Giêsu được Maccô ghi lại bằng tiếng Hy Lạp, nhưng đúng ra được phát biểu bằng tiếng Aramên, là tiếng nói của Đức Giêsu. Chúng hãy nghĩ rằng, đối với những độc giả của mình không hiểu tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu, Máccô phải dịch nghĩa chữ “Effata”!
Chúng ta cũng lưu ý thêm, Đức Giêsu không nói với những cơ quan bị tật nguyền mà nói với chính người bệnh: “Hãy mở ra” hay đúng hơn “hãy mở trở lại”.
Nghi thức Effata này, xưa kia được thực hiện trong khi rửa tội. Vị linh mục sờ vào tai và xức nước miếng mình lên một đứa bé hay người lớn.
Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Khi dùng nghi thức này để rửa tội, Giáo Hội đã sớm hiểu phép lạ này trên bình diện tượng trưng? “Con người có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe”. Đui, điếc và câm: Đó là thân phận con người trước mặt Thiên Chúa, Thánh Maccô sẽ lặp lại nhiều lần trong cùng một bối cảnh rằng, chính những môn đệ của Đức Giêsu cũng là những người điếc và câm, những người không hiểu gì (Mc 8,18; 8,52; 7,18).
Qua phép Rửa, chính Đức Giêsu đích thân hành động. Người gặp một người tự nhốt kín mình, không thể thiên lạc được và chữa trị toàn diện: Chúa đã làm cho người này có thể nghe và hiểu Lời Chúa. Chúa cũng ban cho họ quyền thông truyền lời đó cho kẻ khác. Đó là vấn đề Đức tin. Tình trạng tự nhiên lúc vừa sinh ra của chúng ta, đó là sự tự nhốt kín mình, một tình trạng cô đơn cách biệt: Con người bị “bít kín” trước những sự việc của Thiên Chúa. Con người phải được Đức Giêsu “mở ra” để đón nhận mầu nhiệm Nước Trời.
Biết bao Kitô hữu hiện nay vẫn còn “đóng kín”, mắc kẹt trong thế giới tập quán, trong sự hiểu biết hạn hẹp những truyền thống nhỏ nhoi của họ. Chúng ta có thuộc vào số những người đi nhà thờ mà không hề biết mở miệng để đáp lại chủ tế hay để hát xướng không? Chúng ta có phải là những người mà trong cuộc sống hàng ngày, không bao giờ dám nói về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, về Tin Mừng không?
Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”
Những lời ca tụng trên nhắc lại trình thuật đầu tiên về cuộc sáng tạo: “Thiên Chúa thấy tất cả những gì Người đã làm đều tốt đẹp” (St 1,30). Nhờ Đức Giêsu, một sáng tạo mới đang xuất hiện, một con người mới được tái tạo… một con người hiệp thông, một người biết lắng nghe và đáp lại. Lắng nghe Thiên Chúa. Nói với Thiên Chúa. Lắng nghe anh em. Nói với anh em.
Lạy Chúa, Chúa là Chủ sự sống, và mọi công trình của Chúa, thật đáng ca ngợi biết bao!
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- B
CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC- Chú giải của Fiches Dominicales
CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC TẠI VÙNG ĐẤT DÂN NGOẠI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1/. Tại vùng đất dân ngoại
Sau khi tranh luận với những người biệt phái và các ký lục về “sạch, và “ô uế”, Đức Giêsu vào vùng dân ngoại, một cử chỉ cho thấy lời nói và việc làm của Ngài luôn đi đôi với nhau. Khi đi ngang qua miền Tyrô và Siđôn (hiện nay thuộc Libăng), nhận lời cầu xin của một phụ nữ Syrô-phênêxi, Ngài đã đuổi quỉ ám ra khỏi con gái bà (7, 24-30: Sách bài đọc năm B không trích câu chuyện này). Giờ thì Ngài đã ở trong miền Thập Tỉnh (Đêcapôli): nơi chốn Máccô xác định ở đây có tính cách thần học hơn là địa lý, vì người Do Thái coi miền có mười thành phố này; ở phía Đông sông Giócđanô, như vùng đất ngoại giáo và ngoại quốc. Theo Marcô, câu chuyện đã xảy ra chính tại miền này, và chỉ trong Tin Mừng của ngài mới có: “Người ta đem một ngài vừa điếc vừa câm đến với Đức Giêsu, và xin Ngài đặt tay trên anh”.
2/. Người câm điếc được chữa lành cách lạ lùng
Lúc chúng ta chờ đợi Đức Giêsu chữa lành người câm điếc bằng một cử chỉ và lời nói đầy quyền năng của Ngài, thì Máccô chúng ta kinh ngạc khi ông thuật lại Đức Giêsu đã chửa lành theo cách các thầy lang ngoại giáo và Do thái thời đó thường làm.
Để tránh những con mắt tò mò, Ngài kéo riêng người câm điếc: “Xa khỏi đám đông”. Ngài: “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Chúng ta thấy Đức Giêsu cũng dùng nước miếng để chữa người mù ở Bétsaiđa trong Máccô 8,23 và chữa người mù từ mới sinh trong Ga 9, 6.
j. Potin xác nhận: “Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành trong các môi trường Kitô giáo” (Đức Giêsu Lịch sử đích thực), Centurion, tr.172). Ở đây phải chăng cũng cần nhắc là trước thời cánh tân phụng vụ, trong lễ nghi rửa tội, có cử chỉ vùa lấy nước miếng xức vào lỗ tai và miệng của đứa trẻ vừa đọc lại lời của Đức Giêsu?
– Ngài ngước mắt lên trời, một cử chỉ cầu nguyện và khẩn nài quen thuộc cho thấy quyền năng của Đức Giêsu từ đâu mà có.
– Ngài rên lên một tiếng. Đây không phải là tiếng kêu cảm thương đối với người bệnh cho bằng một lời mời gọi sức mạnh thần linh đến để chiến thắng quyền n lực sự dữ.
Ngài phán một lời mầu nhiệm mà Máccô đã có ý thuật lại bằng tiếng Araméen, ngôn ngữ Đức Giêsu dùng, mặc dù ông viết Tin mừng bằng tiếng Hy lạp, đó là ‘Eftata’, nghĩa là ‘hãy mở ra’.
Lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu hiệu lực ngay tức thì: đôi tai của người câm mở ra, lưỡi của anh như được tháo cởi, anh bắt đầu nói rõ ràng; và như trong như người câm trong chuyện khác về phép lạ, việc Chúa chữa lành làm dấy lên sự phấn khởi nơi đám đông chứng kiến phép lạ dù Đức Giêsu đã khuyên họ giữ kín.
3/. Dấu chỉ thời đại Đấng Thiên Sai
Lời tung hô Máccô trích dẫn để kết luận câu chuyện cho chúng ta thấy chìa khóa của bài đọc: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được.”
Phần thứ nhất của lời tung hô qui chiếu về sách Sáng thế: “Thiên Chúa thấy tất cả những gì Ngài đã làm đều tốt đẹp”, (Sáng thế 1,31). Như vậy, nó ám chỉ việc Đức Giêsu chữa lành bệnh tật là những dấu chỉ về sự sáng tạo mới mọi người chờ đợi trong thời buổi cuối cùng.
Phần thứ hai hiển nhiên ám chỉ đến những sấm ngôn của Isaia, nhất là sấm ngôn trong sách bài đọc của Chúa nhật thứ 23 này: “Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra và miệng người câm sẽ reo hô mừng rỡ”. Điều này có nghĩa là tất cả những gì các ngôn sứ loan báo đều được hoàn tất nơi Đức Giêsu. Nó cũng chào đón sự mở đầu của thời đại Đấng Thiên Sai.
4/. Loan báo sự chữa lành thiêng liêng
Việc Chúa chữa người câm điếc ở miền Thập Tỉnh được kết thúc bằng lời tung hô chào đón những dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Nó chuẩn bị cho việc chữa người mù ở Bétsaiđa trong 8,22-26 (sách bài đọc năm B không có). Việc chữa lành này sẽ mở đường cho các môn đệ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai.
Như vậy, theo Máccô, phép lạ này cho chúng ta thấy ý tượng trưng của việc chữa lành thiêng liêng mà các môn đệ Đức Giêsu đang cần. Trong câu chuyện, các môn đệ không được chỉ đích danh. Các ông hình như vắng mặt. Nhưng lời mời gọi đầy rung cảm: “Hãy mở ra” nhằm đến các ông trước tiên vì các ông vẫn còn câm điếc một cách bướng bỉnh trước sứ điệp của Thầy mình. Chính các ông có tai mà vẫn không nghe, nên tai các ông cần phải mở ra để có thể nghe lời Thầy mình và lưỡi các ông cũng cần được tháo cởi để có thể lấy đức tin đáp trả lời mời gọi ấy. Chính các ông có mắt mà không thấy (8,18), nên mắt các ông cần được mở ra và soi sáng để có thể tuyên xưng cùng với lòng tin tưởng: “Thầy là Đấng Thiên Sai” (3,29).
Sau cùng, Máccô có chủ ý để phép lạ này xảy ra trong phần đất dân ngoại và đặt nó trong “đoạn về bánh trường sinh” là đoạn hoàn toàn nói đến việc dân ngoại được mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể; ông cũng có chủ ý khi đặt trên môi những người ngoại giáo lời tung hô: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được”. Là muốn công bố và báo trước lời tuyên xưng đúc tin của các cộng đoàn Kitô hữu đã sinh ra và sẽ sinh ra từ việc truyền giáo cho dân ngoại. Như vậy, những độc giả xuất thân từ ngoại giáo trước kia cũng như ngày nay có thể dễ dàng lắng nghe đoạn Tin Mừng này, đồng hóa mình với người câm điếc được chữa khỏi cũng như với đám đông nhân chứng. Họ cũng được mời gọi “cởi mở đón nhận Lời và Hành động của Đấng Cứu Thế”, và “đừng sợ hãi khi phải ‘công bố’ chúng với thế giới”. (Xem J. Hervieux, Tin Mừng Máccô, Centurion, tr.107)
BÀI ĐỌC THÊM
1/. “ Hãy mở ra!”
“Phải chăng Đức Giêsu là người chuyên làm phép lạ để lòe bịp dân chúng, lôi cuốn họ theo mình và làm cho họ sống sảng khoái mê ly trong một thế giới hư ảo?
Khi thuật lại cho chúng ta trình tự chi tiết về việc chữa lành người câm điếc, Máccô, tác giả Tin Mừng, hướng dẫn chúng ta nhìn xa hơn, nhằm giúp hiểu Đức Giêsu cách sâu sắc hơn. Khi chữa người khuyết tật để anh có thể nghe và nói được, Đức Giêsu mạc khải Ngài là ai: hơn hẳn một người có phép thần thông, Ngài chính là Đấng Thiên Sai.
Thực vậy, Isaia đã loan báo điều ấy. Lúc Đấng Thiên Sai đến giải thoát dân Ngài, thì một người mù sẽ mở ra và tai người nghe được”. Đối với sự điếc lác, mù tối, câm nín và tê liệt, Ngài là dấu chấm hết. Ngài sẽ tạo nên những con người mới. Và giờ đây nhờ Đức Giêsu, người mù xem thấy, người điếc nghe được, người câm lên tiếng và người tê liệt bước đi. “Mọi sự Ngài làm đều mới lạ… và tất cả những gì Ngài thực hiện đều đáng ca ngợi”.
Thời kỳ Đấng Thiên Sai được thể hiện mỗi khi con người đi từ tháp Babel nơi không ai hiểu ai đến Lễ Ngũ Tuần là lúc mọi Người đều nghe và hiểu nhau nói gì, dù rất khác biệt về ngôn ngữ chủng tộc và văn hóa, mỗi khi lời người khác không bị phớt lờ vì giải thích một chiều; mỗi khi lời nói của những người đã từng không thể phát biểu trong những cuộc họp, những đại hội, trước micro và máy quay phim, nay được vang lên khắp nơi, không còn bị cấm đoán nữa; mỗi khi những kẻ xấu không còn dám khẳng định mình làm “việc nhân đạo” bằng cách chiếm đoạt quyền ăn nói của những người “thấp cổ bé miệng” trong xã hội vì sau cùng, ai cũng có quyền lên tiếng; mỗi khi ai nấy đều chăm chú lắng nghe những khát vọng cao đẹp nhất của tâm hồn là những cảm hứng đúng đắn nhất của tinh thần nơi bản thân mình cũng như nơi người khác.
Thời kỳ Đấng Thiên Sai cũng được thể hiện mỗi khi chúng ta tung được bức tường giam hãm mỗi người. Bức tường hình thành bởi tính tình và sự giáo dục đã nhận, hoặc bởi sức ép của tính tình và chính trị; mỗi khi thay đổi được điều kiện làm việc ở xưởng thợ, trong dịch vụ, nơi văn phòng, điều kiện làm việc khiến con người khó hoặc không thể giao tiếp với nhau.
Thời kỳ Đấng Thiên Sai cũng được thể hiện mỗi khi con người cùng nhau tạo lập được thế quân bình chính đáng giữa lời phải nói và sự im lặng để lắng nghe; mỗi khi trong gia đình, trong nhóm, trong các đám đông, mối dây giao tiếp trở thành mối dây hiệp thông; mỗi khi các tín hữu phân định được tiếng Chúa trong những điều con người nói với nhau; mỗi khi những bạn hữu của Đức Giêsu không còn ấp úng trong việc loan báo Tin Mùng và ca ngợi những kỳ công của Thiên Chúa.
2/. Kỳ diệu thay những cử chỉ của Đấng Nhập Thể!
“Sự chữa lành hay sự giải thoát Đức Giêsu muốn thực hiện nơi chúng ta đến với chúng ta bằng cách nào? Các giáo phụ trả lời: “Bằng nhân tính thánh thiện của Đức Giêsu”. Đúng vậy, Đức Giêsu chữa lành chúng ta bằng Thân Thể Ngài và bằng cách tiếp xúc với thân thể chúng ta! Marcô nhấn mạnh rất nhiều đến khía cạnh này của dấu chỉ: “Ngài đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên lên một tiếng” toàn bộ hành vi cứu độ của Đức Giêsu Cứu Thế được giải thích qua những cử chỉ thân xác. Chúng ta thường có khuynh hướng xóa bỏ những hình ảnh đầy cảm tính của Đức Giêsu dù chúng “rất người”. Nhưng chúng ta sẽ không thể gạt bỏ điều này, đó là Đức Kitô cứu độ chúng ta không phải bằng lời nói mà bằng những cử chỉ biết nói: bữa Tiệc ly, máu đổ ra từ Thập giá, hòn đá được lăn ra khỏi ngôi mộ trống. Chính những cử chỉ cụ thể này đã nói lên điều muốn nói! Kỳ diệu thay những cử chỉ của Đấng Nhập Thể!
Do đó, đương nhiên, các bí tích cũng nằm trong chiều hướng chung của việc Nhập Thể: một mình gặp gỡ Thiên Chúa không qua những cử chỉ cứu độ của Đức Giêsu, là một giấc mơ hão huyền mau qua và sẽ kết thúc mau lẹ bằng việc không còn sống với Thiên Chúa nữa, nhưng là sống theo bản tính tự nhiên: con-người khép-kín-trong-chính-mình, con người điếc, câm, mù trước những thực tại cao cả. Chúng ta chỉ gặp gỡ Thiên Chúa thực sự nhờ đôi tai, cái lưỡi và đôi mắt. Sự gặp gỡ với Đức Giêsu chỉ có sức mạnh biến đổi thực sự nhờ những dấu chỉ bí tích, những dấu chỉ thuộc thân xác và trong Giáo hội là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có thái độ nào đối với những cử chỉ Đức Kitô muốn thực hiện trên chúng ta? Chúng ta sẽ đến gần Đức Giêsu để Ngài biến đổi chúng ta thành con người mới, con người được chữa khỏi câm điếc hay không? Con người từ nay trở đi hoàn toàn rộng mở!
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- B
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII này cho chúng ta thoáng thấy những dấu chỉ về sự biến đổi của những người được cứu độ.
Is 35: 4-7
Ngôn sứ I-sai-a loan báo rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày ở Ba-by-lon. Những dấu chỉ báo trước ơn cứu độ của Ngài, đó là giải thoát con người khỏi những quyền lực sự dữ.
Gc 2: 1-5
Thánh Gia-cô-bê nhắc nhở rằng trong cộng đoàn của những người đã đón nhận ơn cứu độ, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa người giàu và người nghèo, bởi vì Thiên Chúa dành chỗ ưu tiên cho người nghèo.
Mc 7: 31-37
Thánh Mác-cô tường thuật Đức Giê-su chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng ở miền Thập Tỉnh, miền đất dân ngoại. Đây là dấu chỉ thời Thiên Sai, thời Thiên Chúa cứu độ muôn dân.
BÀI ĐỌC I (Is 35: 4-7)
Bản văn nầy được đưa vào trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất (ch. 1-39), vị ngôn sứ thời tiền lưu đày, thuộc thế kỷ VIII tCn. Nhưng rõ ràng giọng văn lại là của vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55), vị ngôn sứ thời lưu đày với một viễn cảnh đặc thù của ông: ngày cứu thoát những người lưu đày ở Ba-by-lon sắp đến rồi.
1/.Ngày cứu thoát sắp đền gần rồi:
Vị ngôn sứ loan báo tin vui cho những người lưu đày tại Ba-by-lon là Thiên Chúa sắp cứu thoát dân Ngài:
“Hãy nói với những kẻ nhát gan: ‘Can đảm lên, đừng sợ!
Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh em” (35: 4).
Vị ngôn sứ trưng dẫn hai dấu chỉ của thời cứu thoát này: những tật nguyền thể lý sẽ biến mất và sa mạc sẽ không còn vùng đất khô cằn nữa, vì trên con đường hồi hương trở về (từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri) Thiên Chúa sẽ làm những điều kỳ diệu:
“Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Vì có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.
Miền đất nóng bỏng biến thành ao hồ,
đất khô cằn có mạch nước tuôn trào” (35: 5-7a).
Chắc chắn những hình ảnh nầy là lối nói ngoa dụ để diễn tả niềm hân hoan của những người lưu đày mong ước được gặp lại cố hương. Nhưng sâu xa hơn, những hình ảnh nầy diễn tả một thực tại tinh thần. Thiên Chúa đã bày tỏ lòng xót thương; Ngài đã không còn nhớ đến những tội lỗi của dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ, theo cách nào đó Ngài làm mới lại Giao Ước của Ngài với họ.
2/.Cứu thoát khỏi những quyền lực sự dữ:
Những người mù sẽ được sáng mắt để thấy ý nghĩa sâu xa của biến cố, những người điếc sẽ được mở đôi tai để nghe những tin vui và những người què sẽ nhảy nhót vì vui mừng hớn hỡ. Trong một đoạn văn trước đó theo cùng văn mạch, chúng ta đọc thấy:
“Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe những lời trong sách,
mắt người mù sẽ thoát khỏi cảnh mù lòa tối tăm
và sẽ được nhìn thấy.
Nhờ Đức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi,
và vì Đức Thánh của Ít-ra-en,
những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng bừng” (Is 29: 18-19).
Chúng ta có thể xác định thêm nữa: vào thời của các ngôn sứ, cũng như vào thời của Đức Giê-su, những tật nguyền thể lý được coi như những hình phạt vì tội lỗi (Ga 9: 1-3); vì thế, nếu những người mù được mở đôi mắt để thấy, nếu những người điếc được mở đôi tai để nghe, chính vì những nguyên nhân gây nên những đau khổ của họ đã biến mất, nghĩa là những tội lỗi của họ đã được tha thứ.
Rõ ràng, sấm ngôn mang chiều kích Thiên Sai: “Chính Người sẽ đến cứu anh em”, nghĩa là, Thiên Chúa bày tỏ lòng xót thương và ban ơn tha thứ tội lỗi của thế giới. Việc chữa lành những tật nguyền thể lý tiên báo việc chữa lành những đau khổ tinh thần. Khi Gioan Tẩy Giả băn khoăn muốn biết phải chăng Đức Giê-su thật sự là Đấng Thiên Sai, Đức Giê-su trả lời cho ông qua những người được thánh nhân sai đến: “Các ông cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được…” (Mt 11: 4). Đây là những dấu chỉ thời Thiên Sai mà vị ngôn sứ đã báo trước. Tin Mừng hôm nay khẳng định lời loan báo nầy được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 1-5)
Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay là kim chỉ nam thực hành những nhân đức, trong đó đức khó nghèo chiếm một vị thế ưu tiên.
1/.Thái độ phản chứng đối với những giá trị Tin Mừng:
Có sự phân biệt đối xử giữa người giàu và người nghèo trong buổi hội họp cộng đoàn Ki-tô hữu, vì thế thánh nhân đã lên án nghiêm khắc thái độ phản chứng đối với những giá trị Tin Mừng. Cách tiếp đón ân cần vồn vã và khúm núm đối với những người giàu và cách chào đón khinh thường đối với những người nghèo lại trở nên kỳ chướng hơn nữa khi những người Ki-tô hữu họp nhau lại để cầu nguyện và chúc tụng “Đức Giê-su Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang”.
2/.Tình huynh đệ Ki-tô hữu:
Thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh rằng tình huynh đệ Ki-tô hữu phải cho thấy không có bất kỳ cách đối xử thiên tư nào. Xem ra trong cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân ngỏ lời có một sự phân biệt đáng kể giữa những người nghèo và những người giàu, những người hèn mọn và những người có địa vị trong xã hội. Thư nhắc cho những người giàu nhớ chỗ danh dự mà Thiên Chúa đã ban cho những người nghèo trong ý định của Ngài. Phù hợp với truyền thống Kinh Thánh liên quan đến “những người nghèo của Đức Chúa”, thánh Gia-cô-bê ca ngợi người nghèo “giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc”.
TIN MỪNG (Mc 7: 31-37)
Hiện nay Đức Giê-su đang rảo khắp miền đất dân ngoại để thi hành sứ mạng của mình: “Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh”. Chúa Giê-su vừa mới chữa lành con gái của một người phụ nữ dân ngoại (7: 24-30), giờ đây Ngài sắp thi ân giáng phúc cho một dân ngoại khác, vừa điếc vừa ngọng. Thánh Mác-cô là tác giả duy nhất trong bốn thánh ký thuật lại việc chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng này. Cuộc hành trình qua lãnh địa rộng lớn của dân ngoại có thể do ý định của thánh Mác-cô như tham dự trước sứ mạng của Giáo Hội cho lương dân.
1/.Tác nhân chính của việc chữa lành:
Thánh Mác-cô đã dàn dựng hoạt cảnh chữa lành nầy khá đặc biệt: “Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Vào thời Đức Giê-su, người ta cho là nước miếng có hiệu lực chữa lành, đặc biệt hơn đối với mắt, như một trong những bản văn của sử gia La-tin, Tacite, làm chứng điều nầy (Tacite, Histoire, IV, 8, 1.). Đức Giê-su cũng sẽ dùng cách thức nầy trong việc chữa lành người mù ở Bết-xai-đa (Ga 9: 6). Đang ở giữa vùng đất dân ngoại, Chúa Giê-su đã thích ứng lối chữa bệnh rất phổ biến này vào môi trường của họ. Loại chữa bệnh này được gặp thấy đầy dẫy trong các giai thoại ở vùng đất dân ngoại thời đó, nên các độc giả đầu tiên của Tin Mừng Mác-cô chẳng lấy gì làm ngạc nhiên, vì họ biết các tập tục của những người đương thời với họ.
Tuy nhiên, tác nhân chính của việc chữa lành chính là “lời của Đức Giê-su” mà thánh Mác-cô trích dẫn bằng tiếng A-ram “Ép-pha-ta” nghĩa là “hãy mở ra”. Ở giữa bản văn Hy ngữ, thánh ký đã gìn giữ những lời A-ram của Chúa Giê-su như câu chuyện phục sinh con gái của ông Gia-ia: “Ta-li-tha-khum”, nghĩa là: “Này cô bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!” (5: 41). Đừng thấy ở nơi chi tiết này ý muốn gây nên một điều kỳ lạ đến sửng sốt, nhưng đúng hơn nỗi bận lòng về tính xác thực: chính những lời nầy của Đức Giê-su chứ không gì khác, đã có hiệu lực chữa lành và phục sinh người chết.
Người ta có thể nghĩ rằng việc Đức Giê-su chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng nầy có kèm theo lời cầu nguyện: “Người ngước mắt lên trời” chỉ cho thấy tác động của lời cầu nguyện. Sau nầy, Đức Giê-su chữa lành một em bé bị quỷ ám bằng cầu nguyện, mà trước đó các môn đệ đã không thể vì thiếu cầu nguyện (Mc 9: 28-29).
2/.Ý nghĩa cử chỉ của Đức Giê-su:
Dù thế nào, chúng ta cũng thắc mắc những cử chỉ nầy của Đức Giê-su có ý nghĩa gì, khi kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông và chỉ có các môn đệ Ngài là những chứng nhân. Lời giải thích chắc chắn được gặp thấy ở nơi toàn cảnh của các chương 6, 7 và 8 trong Tin Mừng Mác-cô. Kể từ phép lạ hóa bánh ra nhiều, thánh Mác-cô nêu bật tâm trí quá chậm hiểu của các môn đệ: “Các ông đã không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hóa nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội” (6: 52). Đức Giê-su quở trách sự mù lòa và câm điếc của các ông trước sứ điệp của Thầy mình: “Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư?” (8: 18).
Đúng là những lời quở trách nầy được thốt lên vào thời điểm phân cách hai việc chữa lành: việc chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng ở đây với việc chữa lành một người mù ở Bết-xai-đa sau này (8: 22-26). Hai việc chữa nầy được thuật lại gần giống nhau. Trong cả hai trường hợp, Đức Giê-su cách ly bệnh nhân, và trong cả hai trường hợp, việc chữa lành không ngay lập tức (việc chữa lành anh mù ở Bết-xai-đa được thực hiện qua hai giai đoạn). Cuối cùng, trong cả hai trường hợp, thánh Mác-cô đều cho thấy chỉ có các môn đệ là những chứng nhân.
Chúng ta không thể nào không hiểu rằng cử chỉ nầy là một dấu chỉ được diễn tả bằng hành động như các hành động biểu tượng của các ngôn sứ có kèm theo những lời cảnh báo: ngôn sứ Giê-rê-mi-a đập vỡ một bình gốm trước cổng thành Giê-ru-sa-lem để loan báo cuộc tàn phá thành thánh Giê-ru-sa-lem sắp đến gần rồi, hay ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã làm những dáng điệu của một người bị phát lưu trong nhiều ngày liền để loan báo cho đồng bào của mình về số phận lưu đày đang chờ đợi họ. Cũng theo một cách như vậy, Đức Giê-su đã cho các môn đệ thấy họ đã chậm hiểu như thế nào, khi mà Ngài đã đổ hết công sức để họ có thể hiểu sứ điệp và con người của Ngài. Rõ ràng, lệnh truyền “Ép-pha-ta” được ngỏ lời trực tiếp đến từng môn đệ của Ngài, họ là những người vừa câm vừa điếc.
3/.Không được tiết lộ cho ai biết:
Lẽ ra sau khi bệnh nhân được chữa lành, trình thuật có thể chấm dứt ở đây. Tuy nhiên, một lần nữa, Chúa Giê-su truyền cho những người chứng kiến phải giữ kín chuyện này, không được tiết lộ cho ai biết, như trước kia Chúa Giê-su đã truyền lệnh cho người phong hủi được chữa lành (1: 44) và cho gia đình của cô bé được sống lại (5: 43). Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô thường nhấn mạnh lệnh cấm này mà các nhà chuyên môn gọi là “Bí Mật Đấng Thiên Sai”. Trong tất cả các trường hợp ấy, Đấng Thiên Sai đã biểu lộ quyền năng Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài. Tuy nhiên Ngài không muốn công bố sứ mạng Thiên Sai trước kỳ hạn, bởi vì người ta có thể hiểu sai tư cách “Thiên Sai” của Ngài. Tước hiệu này Ngài chỉ nhận được cách thỏa đáng qua lời tuyên xưng đầy ý thức của Phê-rô nhân danh các môn đệ: “Thầy là Đức Ki-tô” (8: 30). Và tước hiệu ấy sẽ chỉ nhận được ý nghĩa trọn vẹn ở nơi cuộc Tử Nạn của Ngài qua lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng ngoại giáo: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15: 39).
4/.Phản ứng của dân chúng:
“Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra”: Như vậy, ngay lúc này đây, thánh Mác-cô lại cho thấy rõ là lệnh truyền giữ im lặng của Chúa Giê-su đã bị người ta cố tình vi phạm. Sở dĩ như thế là vì trong khi Mác-cô ghi lại trình thuật này, Tin Mừng của Chúa Ki-tô Cứu Thế đã loan ra khắp các miền dân ngoại, đến tận cả Rô-ma. Giờ đây quả thực tốt đẹp biết bao khi Tin Mừng ấy đã được “rao truyền” ở giữa lòng thế giới.
Lời phát biểu của đám đông: “Ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được” ám chỉ đến sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a (Bài Đọc I), như vậy, sấm ngôn này đã được ứng nghiệm nơi sứ vụ của Chúa Giê-su, Ngài là Đấng phải đến để cứu thoát con người khỏi quyền lực sự dữ. Cuối cùng, thánh Mác-cô còn muốn trình bày ở đây phản ứng của quần chúng ngoại giáo bằng một lời tuyên xưng đức tin rất mãnh liệt. Họ dùng những lời của ngôn sứ I-sai-a để chúc tụng Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su thực sự mời gọi các bạn hữu của Ngài – kể cả thánh Mác-cô cũng như các độc giả của ông – mở rộng tấm lòng mà đón nhận lời nói và hành động của Ngài, đồng thời can đảm “rao truyền” lời nói và hành động của Ngài cho thế giới.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- B
CHÚA CỮU CHỮA NHỮNG KHUYẾT TẬT CỦA CHÚNG TA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (Is 35,4-7a) : Ngôn sứ Isaia tiên báo rằng Đấng Messia sẽ làm cho người điếc được nghe, người quẻ được đi và người câm nói được.
– Tin Mừng (Mc 7,31-37) : Đức Giêsu cứu chữa một người vừa điếc vừa ngọng.
I/. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu cứu chữa một người vừa điếc vừa ngọng. Về mặt thiêng liêng, chúng ta cũng điếc và ngọng, vì tai chúng ta chưa biết lắng nghe Lời Chúa cho đủ và miệng lưỡi chúng ta chưa biết ca tụng Chúa cho xứng. Chúng ta hãy tha thiết xin Chúa cứu chữa chúng ta.
II/. GỢI Ý SÁM HỐI
– Người công giáo Việt Nam chúng ta quen đọc kinh nhưng chưa quen đọc và suy gẫm Lời Chúa.
– Trong khi cầu nguyện, chúng ta thường xin Chúa ban ơn, nhưng ít khi biết ca tụng Chúa.
– Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Giacôbê chỉ trích những kitô hữu coi trọng người giàu và khinh rẽ người nghèo. Phải chăng lời công kích ấy cũng đúng cho chúng ta ?
III/. LỜI CHÚA
1/. Bài đọc I (Is 35,4-7a)
Chương 35 sách Isaia là những lời an ủi dân do thái đang sống kiếp lưu đày khổ sở. Bằng những hình ảnh rất cụ thể, Isaia mô tả ơn giải thoát Chúa sẽ ban cho họ : người điếc nghe được, người què đi được, người câm nói được. Dĩ nhiên đây chỉ là những hình ảnh được mượn để nói đến những ơn cao trọng hơn : điếc, què và câm là tình trạng khốn khổ của con người bị tước mất những khả năng tự nhiên ; nghe, đi và nói là tình trạng được ơn Chúa phục hồi.
Điều Isaia tiên báo sẽ được Đức Giêsu thực hiện.
2/. Đáp ca (Tv 145)
Thánh vịnh này mang cùng nội dung với bài đọc I, nghĩa là nói về ơn giải thoát của Thiên Chúa. Nhưng tác giả Thánh vịnh xử dụng những hình ảnh khác hơn : xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn, giải phóng người tù tội, mở mắt kẻ mù lòa v.v.
3/. Tin Mừng (Mc 7,31-37)
Phép lạ này có nhiều ý nghĩa biểu tượng :
– Diễn ra “giữa miền Thập Tỉnh”, nghĩa là miền đất lương dân.
– Nạn nhân là một người câm và điếc, tức là một người mất khả năng tương giao với kẻ khác : người ta nói thì anh không nghe, anh muốn nói cho người ta nghe cũng không được.
– Lúc chữa bệnh, Đức Giêsu nói Epphata (Hãy mở ra), tiếng này ngày nay được phụng vụ dùng lại trong bí tích Rửa tội. Khi đọc câu đó, Linh mục cũng đưa tay sờ vào miệng và tai người thụ tẩy.
4/. Bài đọc II (Gc 2,1-5) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê khuyên tín hữu đừng đối xử thiên vị coi trọng người giàu và coi khinh người nghèo. Ngài còn lưu ý rằng Thiên Chúa ưu ái người nghèo.
IV/. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Ơn ban nghe được và nói được
Nghe và nói là khả năng rất quan trọng của con người.
– Ai không nghe được hoặc nghe không rõ thì thường trở thành trò cười cho người khác, bởi vì không hiểu đúng ý người nói cho nên trả lời hoặc phản ứng thường sai lệch. Bởi vậy những người khiếm thính thường rút lui vào sự im lặng và cô đơn.
– Nói là khả năng giúp con người giao tiếp và là phương tiện chủ yếu được dùng trong giao tiếp. Người kém khả năng này cũng dễ thành trò cười cho thiên hạ.
Cho nên nghe được và nói được là hai ơn rất lớn Chúa ban cho con người.
Việc Đức Giêsu chữa cho một người câm điếc hôm nay không chỉ có ý nghĩa với người đó, mà cũng có ý nghĩa đối với chúng ta. Có ý nghĩa không phải vì chúng ta câm điếc, mà vì chúng ta được Chúa ban cho hai khả năng quý báu đó. Tuy nhiên nhận được hai ơn ban ấy không hẳn là chúng ta biết xử dụng đúng hai ơn ban ấy. Trong chúng ta, nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe, nhiều người có miệng lưỡi tốt nhưng không biết nói những điều đáng nói. Cho nên cả chúng ta ta nữa cũng cần được Đức Giêsu chữa trị.
Nghe được mọi chuyện nhưng lại không nghe được Lời Chúa thì cũng như điếc. Nói đủ thứ chuyện nhưng không biết tuyên xưng lòng nhân lành của Chúa thì cũng kể như câm.
- Mê tín trong đạo
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay kể chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cứu chữa cho một người khỏi tật câm và điếc. Có một vài chi tiết trong câu chuyện này đáng chúng ta lưu ý, đó là :
. Khi chữa trị cho người này, CG đã đưa anh ta ra khỏi đám đông và kín đáo làm phép lạ chữa trị cho anh.
. Và sau khi anh ta đã khỏi bệnh rồi, CG còn cấm anh không được nói lại điều đó với ai khác.
Tại sao CG cư xử như vậy ? Thưa vì CG không muốn đám đông ồn ào biết đến phép lạ này. Nếu biết, họ sẽ ồn ào đổ xô theo Chúa, nhưng theo như vậy không phải vì tin cho bằng vì óc hiếu kỳ, vì muốn được lợi lộc.
Con người ta rất dễ bị kích động vì những chuyện lạ thường. Khi nghe nói chỗ nào có Đức Mẹ hiện ra thì người ta ùn ùn kéo đến. Nhưng thử hỏi, những người đổ xô đi tới những nơi nghe đồn có chuyện lạ thường ấy, họ đi đến đó vì động lực nào thúc đẩy ? Chắc không phải vì lòng đạo đức chân thật, không phải vì đức tin chân chính, cho bằng vì óc hiếu kỳ muốn thấy chuyện lạ, và vì óc vụ lợi muốn được khỏi bệnh… Một hành động không vì niềm tin chân chính mà vì óc hiếu kỳ và tính vụ lợi rất dễ đưa tới mê tín dị đoan. Mà mê tín dị đoan thì làm lu mờ đức tin chân chính, làm méo mó sai lệch bộ mặt của đạo giáo.
Rất may là trong đạo Công giáo chúng ta tương đối ít có những chuyện mê tín dị đoan. Đó là nhờ chúng ta có giáo lý vững chắc, có luật cấm mê tín dị đoan và thường được Giáo hội thường xuyên chỉ dạy nhắc nhở. Tuy nhiên, tương đối ít hơn nơi các đạo khác thôi, chứ không phải là hoàn toàn không có. Thỉnh thoảng vẫn có những người công giáo đi coi bói, đi xin bùa… Những người ấy đã làm những việc mê tín dị đoan đó trong những hoàn cảnh nào ? Thường là :
. Khi có người thân bị bệnh nặng : chữa trị bằng thuốc men không thấy hết, người ta quay sang các thầy bùa thầy ngãi.
. Hay khi trong nhà bị mất tiền, mất vàng, mất đồ đạc. Người ta sốt ruột, đi coi thầy bói để mong biết được kẻ cắp mà lấy của lại.
. Hoặc khi gặp một cơn hoạn nạn, người ta lo sợ muốn qua khỏi nên chạy đến cần cứu với thần thánh này nọ, người ta cúng, người ta khấn vái…
Một bà kia xưa nay vẫn giữ đạo rất tốt. Nhưng rồi bà mắc một chứng bệnh kỳ lạ, chữa chạy nhiều cách không khỏi. Có người nói rằng chắc là bà ta bị thư bị ếm gì đó, cần phải nhờ thầy bùa giải dùm. Gia đình rất băn khoăn, tới hỏi ý kiến của các Cha. Các Cha khuyên rằng đây chính là dịp để mình chứng tỏ đức tin của mình vào Chúa. Các Cha nhắc nhở về ý nghĩa của đau khổ, về sự phó thác trong tay Chúa v.v… Nhưng người thân của bà ấy chỉ im lặng, rồi buồn bả ra về, đưa bà ta đến thầy bùa. Rốt cuộc bà ta cũng chết thôi. Gia đình vừa buồn vì mất một người thân, mà lại thêm mặc cảm là mình đã phạm tội không tin tưởng trọn vẹn vào Chúa. Một người giữ đạo tốt bấy lâu nay, thế mà trong cơn hoạn nạn cũng không đứng vững trong đức tin, để còn chạy theo những giải pháp mê tin dị đoan như vậy, chứng tỏ cái cám dỗ mê tín dị đoan nó mạnh đến chừng nào !
Vậy, để chúng ta có thêm sức chống lại cái cám dỗ đó, hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ một vài điểm :
. Thứ nhất : hãy tưởng tượng mình là Chúa đi. Rồi có một giáo dân này đó đến cầu xin với ta một ơn gì đó. Ta chưa ban ơn thì người đó đã chạy đi cầu xin với một ông thần khác, cầu xin với ma quỷ, với thầy bói thầy bùa. Thì ta nghĩ làm sao ? Đương nhiên là Chúa phải nghĩ rằng người này không tin Chúa, hay có tin chỉ cũng không tin bằng tin các thầy bói thầy bùa. Nếu tôi là Chúa thì chẳng bao giờ tôi ban ơn cho một kẻ đến cầu xin với tôi mà không tin tôi như vậy. Hãy bỏ mọi thứ mê tín dị đoan đó đi, hãy dứt khoát với các thầy bùa thầy ngãi đi rồi đến cầu xin với Chúa thì mới mong được Chúa ban ơn. Đừng bắt cá hai tay, rốt cuộc tay nào cũng không bắt được cá. Chúa đã từng nói : “Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà.
. Điểm thứ hai : chúng ta cũng phải nhận thức rằng tuy trong lúc bệnh tật, gian nan chúng ta lo âu thật, nhưng bệnh tật, gian nan, đau khổ là chuyện dĩ nhiên và đương nhiên phải có trong cuộc sống ở thế gian này. Chỉ khi nào ở thiên đàng thì mới hết những thứ đó, còn bao lâu còn ở thế gian thì phải gặp những thứ ấy. Có thể nói chính Chúa để cho cuộc sống ở thế gian có những thứ ấy. Để làm chi ? Để nhắc chúng ta biết rằng thế gian chỉ là tạm bợ, là bất toàn ; thiên đàng mới là quê hương vĩnh viễn, là nơi hạnh phúc hoàn toàn. Cho nên mặc dù chúng ta phải cố gắng hết sức để thoát khỏi đau khổ, thoát khỏi bệnh tật, thoát khỏi tai ương… Nhưng phải ý thức rằng sẽ không thoát khỏi hoàn toàn được đâu, vì mình vẫn còn sống ở thế gian. Phải có đức tin để ý thức được điều đó. Một Linh mục kia đã khuyên một người đau khổ như sau : “Khi chúng ta đến than thở với Chúa về một Thánh Giá ta đang gánh vác. thì cách đáp ứng tốt nhất của Chúa không phải là cất thánh giá đó đi, nhưng là ban thêm sức cho ta có thể vác nổi thánh giá đó”.
Qua bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta thấy rằng Đức Giêsu không dửng dưng trước những đau khổ của loài người, vì thế Chúa thường làm phép lạ để cứu chữa loài người khỏi những đau khổ. Nhưng trong lần này, Chúa đã làm phép lạ xa khỏi cặp mắt của đám đông, làm phép lạ xong còn cấm người ta không được kể lại phép lạ đó. Ấy là vì Chúa không muốn những phép lạ làm cho người ta sai lạc về đức tin. Chúa muốn người ta theo Chúa vì tin thật chứ không phải vì được hưởng những chuyện lạ thường, Chúa không muốn người ta theo Chúa vì mê tín dị đoan hay vì hiếu kỳ hoặc vì lợi lộc vật chất.
Xin Chúa cho chúng con theo Chúa vì thực sự tin Chúa. Xin cho đức tin chúng con được vững mạnh, nhất là trong những lúc đau khổ, gian nan.
Báo Tuổi Trẻ có đăng bài xã luận về “Cái lưỡi và cái tai” như sau :
Một hôm trong lúc đang ngồi uống trà và hàn thuyên tâm sự với nhau, tự nhiên tôi thấy ông Hai Hưu Trí có vẻ tư lự và phát biểu như sau :
– Người đời thường hay đổ thừa mọi điều xằng bậy là do tội của “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Nhưng tôi nghĩ nếu chỉ có cái lưỡi thì cũng chẳng có vấn đề ! Anh cứ ngẫm lại mà coi, nếu chỉ có mấy cái lưỡi lươn lẹo, xu nịnh thường hay múa may với nhau thì bất quá cũng chỉ làm điếc tai hàng xóm láng giềng mà thôi. Cái lưỡi chỉ có thể làm nên những chuyện tày trời nếu nó được hỗ trợ của những “cái tai” không biết phân biệt tốt xấu, thật giả của mấy ông : “Nhà báo nói láo ăn tiền”.
Nhưng họ lại quên không chê mấy ông cấp trên quan liêu chỉ khoái được nghe những bài báo cáo thành tích khi chưa kiểm tra thực hư ! Nếu chỉ chuyên có cái lưỡi thì chắc sẽ không thể “vẽ vời” để biến một công ty đang từ tình trạng làm ăn thua lỗ, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho nhà nước, bỗng dưng trở thành một công ty đang trên đà phát triển và làm ăn khấm khá. Nếu có những cái tai thực sự ngay chính thì những lời đường mật như vậy làm sao có khả năng gây ra biết bao thiệt hại được.
Nghe ông Hai Hưu Trí triết lý một hồi như vậy, tôi liền thêm vào :
– Hôm nay Bác Hai nói thật là chí lý thậm phải !
Ông Hai Hưu Trí bèn cười lên một tiếng lớn rồi ôn tồn nói :
– Nè nhá, cũng bởi cái tai của chú mày chỉ khoái nghe những chuyện xốc hông xiên xỏ, nên cái lưỡi của lão già rách việc này mới có cơ hội múa may như từ nãy đến giờ, phải không chú em ?
*
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Kẻ “câm và điếc” hoàn toàn bị tước đoạt hai phương tiện cần thiết này. Lưỡi họ như bị một sợi dây vô hình trói buộc, tai họ dường như có một cánh cửa khóa chặt. Họ không hiểu được ai và cũng chẳng ai hiểu được họ. Có thể nói, họ bị tách khỏi thế giới bên ngoài. Hôm nay, Đức Giêsu chữa cho một người câm điếc. Người phán : “Ép-pha-ta” nghĩa là “Hãy mở ra ” lập tức tai anh mở ra, lưỡi anh như hết bị trói buộc (x. Mc.6,34-35).
Chẳng ai muốn mình bị điếc, nhưng trong thực tế không thiếu người mắc bệnh này. Chúng ta bị điếc khi để mình mất khả năng lắng nghe kẻ khác. Chúng ta bị điếc khi chúng ta nghe người khác nhưng lại cố hiểu theo ý mình. Chúng ta bị điếc khi lắng nghe mà không nhận thức được đúng sai, hay dở. Vậy điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở chỗ người nghe suy nghĩ và quyết định ra sao. Nắm được tâm lý của con người nên hãng bảo hiểm Prudential mới chọn khẩu hiệu : “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.
Vì thế, chỉ nghe bằng tai thôi không đủ, mà phải lắng nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt. Hơn nữa, không phải thông tin nào cũng nên nghe. Cần phải chọn lựa những thông tin bổ ích hữu dụng ; không gây phương hại, vẫn đục cho tâm hồn.
Cha Mark Link có viết : “Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai, nhưng luôn có thể tin vào những gì thấy bằng con tim của mình”.
*
Lạy Chúa, xin phá đổ bức tường thành kiến trong tâm trí chúng con, để chúng con lắng nghe được tiếng gọi thổn thức của anh em, và tiếng thúc giục của Lời Chúa.
Xin cho chúng con đừng câm điếc trước lời mời gọi của Chúa và tha nhân. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
4/. Đừng đánh giá con người theo vẻ bề ngoài
Những chuyện dưới đây có thể dùng để minh họa lời khuyên của Thánh Giacôbê trong bài đọc II hôm nay :
a/ Hôm đó, một đệ tử của một vị thiền sư đi dự một buổi lễ trở về, mặt mày hớn hở. Khi được hỏi tại sao hớn hở như vậy, người đệ tử ấy cho biết là mọi người đều khen anh mặc áo đẹp. Vị thiền sư ôn tồn chỉ dạy : “Con chẳng có gì để vui mừng hớn hở cả, vì người ta khen chiếc áo đẹp chứ đâu phải khen con đẹp”.
b/ Một ông nhà giàu mở tiệc khoản đãi tất cả những người láng giềng. Cạnh nhà ông có một người rất nghèo. Vì nễ tình hàng xóm nên người này cũng đến dự. Tuy nhiên người này nghèo nên chiếc áo anh mặc rất là tầm thường. Khi tới cổng, anh bị các đầy tớ của người nhà giàu không cho vào. Tức quá, anh mượn một chiếc áo rất đẹp của một người nhà giàu khác và lại đến. Lần này, anh được mời vào tử tế. Rủi thay, đang lúc lấy thức ăn thì một cánh tay áo rơi vào dĩa thức ăn. Lý do là chiếc áo đặc biệt này có hai cánh tay loại tháo ráp được. Người nhà nghèo chưa quen mặc nên đã không cẩn thận cài nút ở chỗ ráp nối. Những đầy tớ thấy vậy bảo anh nhà nghèo mau lượm cánh tay áo lại. Nhưng anh nhà nghèo thản nhiên nhìn cánh tay áo và nói : “Mày nằm trong dĩa thức ăn thì cứ tha hô mà ăn cho thoả thích đi nhé, vì người ta kính trọng mày chứ đâu phải kính trọng tao”.
V/. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, thời Đức Giêsu người ta đem các thứ bệnh nhân đến để xin Chúa chữa lành, chúng ta cũng hãy đến với Chúa với tất cả mọi lo âu và bệnh tật hồn xác, và dâng lên Chúa lời nguyện sau đây :
1./ Hội thánh ngày nay đang sống giữa đa số những người nghèo khổ bệnh tật cả xác hồn / Xin cho mọi người trong Hội thánh trở nên bạn của những người nghèo khổ bệnh tật / và sẵn sàng chia vui sẻ buồn với họ.
2/. Đa số các nước trên thế giới còn sống trong tình trạng kém phát triển, chậm tiến, đói khổ và bệnh tật / Xin cho các nhà lãnh đạo các nước kém phát triển biết thật tình quan tâm hơn đến đa số dân còn nghèo đói và chậm tiến.
3/. Chung quanh chúng ta còn nhiều người bệnh tật cả phần xác lẫn phần hồn / mà không có ai đem họ đến với Chúa / Xin cho họ sớm gặp được người an ủi giúp đỡ và dẫn họ đến với Chúa.
4/. Trong họ đạo chúng ta còn nhiều người mắc bệnh câm điếc thiêng liêng sợ hôn câm điếc thể xác / Xin cho họ được chữa lành để nghe tin Chúa và ca tụng cảm tạ.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa luôn quan tâm sẵn sàng giúp đỡ mọi người đang gặp cảnh khốn khó, xin Chúa chấp nhận những y nguyện chúng con vừa dâng lên, để mọi người nhận biết quyền năng Chúa, và dâng lời cảm tạ tôn vinh. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI/. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Khi chúng ta đọc “Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”, chúng ta hãy xin Chúa thương đến những người nghèo nàn, bệnh hoạn, tật nguyền…
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là những chứng mù, què, câm, điếc về mặt thiêng liêng, khiến chúng con không nhìn thấy Chúa, không hăng hái đi theo Chúa, không ca tụng Chúa và không lắng nghe tiếng Chúa…“
VII/. GIẢI TÁN
Anh chị em hãy ghi nhớ một câu Tin Mừng hôm nay : khi Đức Giêsu chữa cho người vừa điếc vừa ngọng, Ngài nói : “Epphata”, nghĩa là hãy mở ra. Sống trong tuần này, chúng ta hãy cố gắng mở lòng, mở tai và mở rộng bàn tay để vừa đón nhận tình yêu của Chúa vừa đón tiếp anh chị em chúng ta.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: SỐNG ĐỜI SỐNG THIÊN CHÚA (14/06/2025) .: BA BỘ MẶT (14/06/2025) .: BA NGÔI Ý NGHĨA (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU (14/06/2025) .: SỐNG MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM MỘT CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: HAI GIỜ TRONG MƯA (14/06/2025) .: GIA ĐÌNH KITÔ HỮU HIỆP THÔNG NÊN MỘT (14/06/2025) .: TÌNH YÊU KỲ DIỆU (14/06/2025) .: THIÊN CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU (14/06/2025) .: TOÀN BỘ SỰ THẬT (14/06/2025) .: GIẢNG LỄ CHÚA THÁNH THẦN (07/06/2025) .: CHÚA THÁNH THẦN ĐẤNG THÔNG BAN MỌI SỰ (07/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam