Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 113

Tổng truy cập: 1425612

ĐƯỜNG CỦA CON NGƯỜI và ĐƯỜNG CỦA THIÊN CHÚA

ĐƯỜNG CỦA CON NGƯỜI và ĐƯỜNG CỦA THIÊN CHÚA

Dụ ngôn “ Người cha nhân hậu” trong bài Tin Mừng hôm nay đã nêu rõ những con đường khác nhau: Con đường của người con thứ, con đường đã dẫn đưa cậu đi đến một miền đất xa lạ, cách xa khỏi cha cậu. Con đường của người cha ra đón cậu con thứ

Con đường của người con cả.

Và con đường người cha đi gặp người con cả.

Ðó là những con đường khác nhau, và chúng sẽ: hoặc dẫn tới đích, hoặc chúng chỉ là những ngõ cụt hay là những con đường mất hút trong rừng sâu và không tìm được lối ra.

Thứ nhất: Con đường đi tìm lại sự tự do.

Với số gia tài trong tay, người con thứ đã bỏ nhà cha mình và trẩy đi đến một miền xa lạ. Cậu muốn tận hưởng hạnh phúc và sự tự do riêng của mình theo ý muốn. Người cha đành phải để cho cậu ra đi. Giờ đây mọi sự chỉ còn tùy thuộc vào thái độ của cậu trước các thách đố của đời và liệu cậu có đứng vững được hay không! Vâng, vấn đề có tính cách quyết định là ở chỗ: Tâm tình cậu con vẫn còn luôn tưởng nhớ đến cha cậu và luôn gắn bó với ông, cũng như cậu biết xử dụng phần gia tài được chia cho cậu, đúng với ý cha cậu; hay: Cậu đã cắt đứt mọi liên hệ với cha mình và tổ chức một cuộc sống riêng không dính dáng gì với cha nữa, nếu không nói là một cuộc sống phản lại cha! Sự tự do với cha hay một sự tự do không có cha! Chúng ta đọc thấy trong câu chuyện dụ ngôn. Người con thứ đã tìm cách sống sự tự do của mình không có cha!

Nhưng chúng ta cũng thấy được rằng con đường của người con thứ - với sự tự do không có cha - đã đưa dẫn cậu tới sự bất hạnh, tới một tình trạng bất tự do.

Thật vậy, những ai không còn muốn liên hệ gắn bó với cha mình, thì sẽ ràng buộc mình với nhiều thứ khác: tiền bạc, các đòi hỏi tự nhiên, các thú vui lệch lạc rẻ tiền, v.v... Người ta sẽ trở thành nô lệ cho những thứ đó và tự đánh mất các phẩm chất, tư cách và chính bản ngã của mình. Người ta sẽ trở thành một con người thiếu nội tâm. Ðó chính là sự đánh mất bản sắc riêng!

Câu chuyện dụ ngôn đã nói lên tình trạng buồn thảm đó khi tường thuật: con đường của cậu con thứ đã kết thúc nơi những con heo. Nói cách khác: Người con thứ đã không đứng vững được trước các cám dỗ và thử thách của đời. Cậu đã thất bại trong mọi lãnh vực: tài chánh, luân lý, đạo đức, nhân bản. Cậu thực sự hoàn toàn kiệt quệ và phá sản! Cậu đã đánh mất tất cả. Trong thực tế, cậu quả là một người con hoang đàng dại dột!

Tuy nhiên, trong trái tim cậu, sự khao khát mong muốn sự tự do quá mãnh liệt, khiến cậu ngay giữa cảnh mất mát thất bại đã can đảm đứng lên và bước theo con đường dẫn về cùng cha cậu. Ðó chính là con đường dẫn tới sự tự do chân thật, một sự tự do cậu chỉ có được qua sự gắn bó mật thiệt với cha!

Thứ hai: con đường của người con cả - một con đường rừng!

Người con cả trong dụ ngôn tuy luôn có mặt bên cạnh với cha cậu, nhưng lòng cậu lại cách xa cha. Con đường của cậu xem vẻ bên ngoài không đi xa khỏi cha như con đường của đứa con thứ. Nhưng người con cả cũng không đi chung với cha cậu trên cùng một con đường, khi ông đi ra đón người con thứ của mình đang quay gót trở về cùng ông.

Ai không liên kết gắn bó với cha, thì cũng không tìm ra con đường dẫn tới người anh em của mình. Người con cả nói với cha cậu: “ Thằng con của cha đó đã ăn chơi trác táng và phung phá tiền bạc của cha với bọn đĩ điếm...!” Người cha liền nhân từ và đầy thông cảm cắt nghĩa cho cậu hiểu: “ Em con đã quay trở lại nhà, nó đã chết nay sống lại, nó đã mất nay lại tìm thấy...!” Ai không đi trên con đường dẫn tới người anh em của mình, người đó cũng lỡ bước trên con đường dẫn về cùng cha.

Thứ ba: Con đường của người cha!

Con đường của người cha trong dụ ngôn là hình ảnh tượng trưng cho con đường của Thiên Chúa. Con đường đó dẫn tới nhân loại. Người cha chạy ra đón tiếp đứa con hư hỏng trở về. Ông vui mừng ôm con vào lòng, chứ không hề trách móc la mắng con, như thể: Lỗi lầm của mi thật quá nặng nề. Cái dại của mi thật không sao nói hết... Nhưng tao tha cho lần này là lần chót...! Không. Ông không hề nói gì cả, ông chỉ vui mừng ôm lấy con! Ðó không phải là “ chiến thuật” sư phạm, nhưng là dấu chỉ của tình thương và lòng nhân hậu chân thành của một người cha: Con tôi đã mất và nay lại trở về với tôi! Ðứa con hoang đàng hư hỏng nay lại trở về trong nhà cha cậu và được nhận lại quyền làm con của mình.

Ðúng vậy, tình yêu đích thực không bới mói tội lỗi, nhưng là trao ban sự tha thứ và niềm vui mừng. Tuy nhiên người cha cũng đi ra gặp cậu con cả và cắt nghĩa cho cậu hiểu để cậu cùng mừng với ông. Vì ông rất biết là một bữa tiệc chỉ trọn vẹn khi mọi người cùng vui vẻ với nhau!

Nói tóm lại, qua dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu muốn nói cho chúng ta những điều này:

1. Thiên Chúa là một Thiên Chúa đi tìm kiếm con người, một Thiên Chúa mời gọi con người đến dự tiệc với mình, một Thiên Chúa vẫn giữ vững lời mời, cả khi chúng ta tỏ ra thất trung và đi theo con đường của mình tự chọn lấy, chứ không bước đi trên con đường của Người đã chỉ cho.

2. Thiên Chúa thương yêu chúng ta vô cùng, đến nỗi một kẻ dù đã sa ngã và lâm vào vòng tội lỗi, vẫn có thể trở thành một người tốt lành được. Người không bao giờ loại trừ ai, vì trong tình yêu của Người, Thiên Chúa không hề thất tín. Tình yêu của Người vô cùng bao la, đến nỗi Người vẫn luôn kiên tâm chờ đợi mong mỏi cả những kẻ đã bỏ Người đi xa muôn dặm. Người đi gặp gỡ họ và đón tiếp họ, như thể không hề có gì đã xảy ra, tương tự như người cha đón tiếp người con hư hỏng trong dụ ngôn.

3. Thiên Chúa là một Thiên Chúa của tình yêu thương, của niềm hoan lạc vui mừng, Ðấng hằng muốn cùng chung vui với con cái loài người chúng ta.

Chớ gì tất cả những mặc khải đó mang lại cho tất cả chúng ta sự can đảm và sức mạnh, để tìm ra được con đường sám hối, con đường dẫn chúng ta tới cùng Thiên Chúa và tới cùng những người anh em đồng loại của chúng ta. Amen.

 

27.Lòng Cha trời cao biển rộng

(Suy niệm của AM. Trần Bình An)

Có trường hợp sau khi bỏ nhà đi hoang trở về, các cậu ấm cô chiêu cảm thấy tởn tới già, như trường hợp của K. ở huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang). Sau khi liên tục chứng kiến cảnh cha mẹ mình cứ xung đột, lại thường xuyên bỏ bê con cái, để lo chuyện làm ăn, nên K. đã bỏ nhà lên TP.HCM đi hoang với một bạn “chat” có cùng cảnh ngộ.

Được chừng 10 ngày, K. cảm thấy nhớ nhà, nhưng không biết làm cách nào trở về, vì trong túi không còn một xu. May thay, nhờ một phụ nữ người Hoa tốt bụng cho 50.000 đồng, K. đã đón xe tốc hành về nhà. Kể từ ngày đó, cha mẹ của K. cũng giảm bớt sự căng thẳng với nhau và chăm sóc anh em K. rất chu đáo.

Tuy vậy, khi tiếp xúc với mọi người, K. cảm thấy xấu hổ vô cùng. Vì theo K.: “Ở nhà có cha mẹ, có chăn êm nệm ấm tội gì không ở, đi hoang chi cho... muỗi cắn và bị mọi người dòm ngó bằng cặp mắt lúc nào cũng đề phòng.” (Người Lao Động)

Câu chuyện trên cũng như dụ ngôn người con hoang đàng trở về hôm nay, (Lc 15, 11- 32) vẫn còn là một đề tài nhức nhối và nóng bỏng trong xã hội hiện đại.

Đi hoang trở về

Người con thứ đi hoang đã sám hối trở về. "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.” (Lc 15, 18-19)

Người cha già cả, dẫu tuổi cao sức yếu, vô cùng hân hoan mừng rỡ, thấy con từ đàng xa, đã lật đật, bước thấp bước cao, chạy đến ôm hôn. Cuộc trở về trở nên sự kiện long trọng, nổi đình đám của một gia đình đang ưu uất, buồn bã, phân ly bấy lâu nay.

Khi vào bước đường cùng, người con thứ mới chạnh lòng nhớ đến Cha già xa xăm. Chàng mới nhận ra tấm lòng nhân hậu của Cha, khiến cho đôi chân lãng tử quay trở về.

Người Cha lâu nay bị lãng quên, nay kịp thời lóe sáng như ngọn hải đăng, dẫn dắt và cứu thoát chàng khỏi chốn tối tăm, vô vọng. Trong cảnh khốn cùng, tất cả đều qua đi, chỉ còn lại tình yêu, ta có thể sở hữu tình yêu mãi mãi, trong khi những thứ khác thì qua đi. (1Cr 13,8b-10).

Mỗi khi tôi sa cơ thất thế, hoạn nạn hay khốn khổ, sao tôi không nhớ ra, vẫn có Người Cha Nhân Lành, đang mòn mỏi chở đợi tôi tha phương, trở về nương tựa? Việc gì tôi cứ mãi lo âu buồn bã, thất vọng với cõi đời u ám, lọc lừa, bất nhân?

Đi hoang ở nhà

Người anh trái lại, tuy ở nhà mang tiếng là phụng dưỡng cha, nhưng lòng dạ đen tối, chất chứa đố kỵ, ghen tuông, hằn học, khi thấy “thằng con của cha đó” trở về. Anh không thèm nhìn mặt đứa em, đã cải tà quy chánh. Nghe biết chuyện, anh còn nổi giận, không thèm bước vào căn nhà, đang rộn rã niềm vui tái ngộ.

Lòng dạ cố chấp, tánh tình hẹp hòi, nhỏ mọn, đã cản bước chân anh hội nhập vào cuộc chung vui và tha thứ. Tuy anh ở với cha già, nhưng chỉ có thân xác hiện diện, còn tấm lòng, tinh thần anh đã đi hoang từ hồi nào! Hóa ra, anh cũng chỉ thèm thuồng của cải, vật chất, tầm thường, phù vân, như chú em ngày xưa. Anh chỉ mong được một “con dê con,” để tưng bừng liên hoan đánh chén, bù khú với chúng bạn.

Thực ra, anh kiêu căng, tự phụ là đứa con hiếu thảo, ngoan ngoãn, biết vâng nghe người cha. Cho nên, anh mới không hề ngượng mồm, vanh vách kể công: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà…” Anh nào cảm nhận, thán phục, kính trọng, và ca ngợi tấm lòng Người Cha Nhân Lành vô bờ, chứa chan yêu thương, tựa như trời cao biển rộng!

Giọng lưỡi anh chẳng khác chi lời cầu nguyện của người Pharisiêu, huênh hoang, lớn giọng, kể lể công trạng:“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam bất chính ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,11-12).

Tôi cũng hay coi thường, khinh miệt người khác sống theo thế gian, chộp giật, mánh mung, cơ hội, háo của, háo danh, tham quyền cố vị… Nào khác chi người anh trong dụ ngôn này, cũng kể lể, so sánh, dèm pha, chê bôi, để tôn mình, khoe khoang lòng đạo đức, tốt lành. Thiệt là quá đáng! Làm sao vui lòng Người Cha Nhân Lành được?

Người Cha Nhân Lành

Các nhà chú giải Kinh Thánh đều tỏ ra bất đồng tình về cái tựa Người Con Hoang Đàng, đặt cho dụ ngôn này, vì làm sai lệch ý nghĩa. Có lẽ lấy tựa là Người Cha Nhân Lành thì phù hợp hơn.

Người Cha nhẫn nhục, chia tài sản cho con thứ, dù biết chàng sẽ phung phí ăn chơi sa đọa. Người vẫn tôn trọng sự tự do của chàng. Rồi sau này lại nhẫn nhục, năn nỉ người con cả, nguôi cơn giận hờn vào nhà chung vui.

Người Cha còn quảng đại nhân từ, quên sạch mọi tội lỗi, mọi lỗi lầm, bất hiếu, không để con thứ kịp nói hết lời ăn năn, sám hối, mà hoan hỉ, vội sai ngay gia nhân hầu hạ, phục dịch chàng. "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy." (Lc 15, 22-24)

Người Cha nói chẳng khác chi ông chủ tìm lại được con chiên lạc: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc.” (Lc 15, 6) Hoặc như bà góa hớn hở tìm được đồng tiền rơi mất: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.” (Lc 15, 9)

Tôi khá nhiều khi thất vọng, không nhớ đến Người Cha Nhân Lành, đang mòn mỏi trông mong tôi trở về mái nhà ấm cúng, bình an. Có lẽ vì tôi chủ quan, cho mình đã ngoan đạo, mà thực ra, chỉ giữ đạo hình thức theo luật buộc, theo chân Pharisiêu, mà tâm hồn cứ mãi đi hoang, đi bụi, mãi thèm “con dê con”, mải mê ham vui, mải mê đố kỵ, ganh ghét,…

May thay, bí tích hòa giải đã giúp tôi hoán cải trở về với Người Cha Nhân Lành. Người hằng mong tôi sám hối trở về với tình thương vô bến bờ. Lúc đó, Người mặc cho tôi tấm áo linh hồn mới tinh tuyền, đeo vào tay nhẫn vàng vương quyền, ban cho tôi đôi dép của người tự do, thoát ách nô lệ tội lỗi. Người tưởng thưởng tôi Bữa Tiệc Thánh Thể với chư Thánh Thiên quốc, trong tiếng đàn ca, múa hát tưng bừng của các Thiên Thần hoan hỉ chào đón. Người Cha Nhân Lành chẳng hề tiếc gì, để mừng con trở về vòng tay yêu thương.

Người lạc đường, thất vọng; người không biết đích, vô vọng, người tiến về đích, hy vọng; ở đó con sẽ gặp Thiên Chúa, Cha Nhân Từ đợi chờ con, con sẽ toại vọng. (Đường Hy Vọng, 664)

Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin cho con luôn biết hồi tâm, nhận ra sự dại dột và tệ bạc của mình trước tình yêu vô bờ bến của Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin nhắc nhủ con luôn biết trông cậy vào lòng Người Cha Nhân Lành, để ăn năn, sám hối trở về với Ngài.

 

28.Chúa Nhật 4 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Alfonso)

Tin mừng Lc 15: 1-3.11-32: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha thôi.”

Suy niệm:

Theo truyền thống phụng vụ của Giáo hội Công Giáo, Chúa Nhật IV Mùa Chay là Chúa Nhật của niềm vui, hay còn gọi là Chúa Nhật Letare. Letare là chữ đầu của bài Ca Nhập Lễ trích từ sách ngôn sứ Isaia 66,10-11: “Vui lên nào Giêrusalem hỡi…”. Niềm vui của Chúa Nhật IV Mùa Chay là đã đi được nửa chặng đường của việc giữ Mùa Chay Thánh…

Bài đọc I mời gọi hãy vui lên vì Thiên Chúa đã cho Dân Người tiến vào đất mà Thiên Chúa đã hứa. Một kỷ nguyên mới bắt đầu đối với dân Do Thái. Niềm vui ấy được tiến triển trong Tân ước. Bài đọc II cho chúng ta thấy, nhờ Chúa Kitô mà con người được hòa giải với Thiên Chúa Cha.

Thực ra, người cha người mẹ nào cũng mong muốn con cái thành người, sống đúng với Đạo Trời. Đó là niềm hạnh phúc lớn nhất của cha mẹ chứ chưa nghĩ về việc con cái có thể phụng dưỡng được mình hay không. Câu chuyện Tin mừng hôm nay cho chúng ta hình ảnh về một gia đình người cha nhân hậu đối xử với hai đứa con trai đáng cho chúng ta liên hệ về chính mình.

Theo truyền thống văn hóa Á Châu, con cái chỉ đề cập đến việc chia gia tài khi cha mẹ đã qua đời, hoặc nếu khi cha mẹ còn sống thì chính người cha người mẹ muốn chia gia sản cho con cái mới là lẽ thường. Còn việc con cái đề nghị cha mẹ chia gia tài ngay lúc các ngài còn sống thì chẳng khác gì trù cho cha mẹ chết, và sẽ bị xem là nghịch tử. Dầu vậy, người cha trong đoạn Tin mừng vẫn rất mực thương con, sẵn sàng chấp nhận đề nghị của con, ông chia cho cả hai đứa con.

Nhận được gia tài, thay vì phụng dưỡng cha, người con thứ để mặc người cha già lủi thủi ở nhà. Nó trẩy đi phương xa ăn chơi trác táng. Đến khi hết tiền hết bạc, nó phải chăn heo, loại động vật mà văn hóa Do Thái xem là dơ bẩn và họ không chăn heo và cũng không ăn thịt heo bao giờ. Người con thứ lâm vào cảnh cùng khốn của mình, không chỉ về phương diện vật chất mà còn cả về phương diện phẩm giá: “Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho.” Hậu quả của việc phung phí gia sản đã dẫn người con đến sự cùng tận của kiếp người, sống không ra người.

Người con thứ dự tính trở về mái nhà của cha không phải vì thương cha mà là vì miếng ăn: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” Lúc gặp khốn cùng, con người mới nghĩ về Thiên Chúa, chạy đến với Ngài. Nhưng lắm khi những điều con người ta suy tính trong lòng chỉ là vụ lợi, việc cất bước trở về chẳng có gì là cao thượng. Dẫu vậy, Thiên Chúa chấp nhận một cuộc trở về không hoàn hảo, vì Ngài có thể vẽ đường thẳng từ những đường cong.

Lẽ thường của một người cha hẳn là rất giận đứa con, có thể không nhìn mặt, hay ít ra cũng chửi cho nó một trận. Nhưng người cha trong câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta cảm nghiệm về một Thiên Chúa nhân từ đến tột cùng. “Anh ta còn ở đằng xa, cha anh chợt trông thấy, liền động lòng thương” Từ khi đứa con ra đi khỏi nhà cha, hằng ngày người cha tựa cửa mong ngóng đứa con trở về, và còn ra cả góc phố đi đi lại lại trông đợi con và hy vọng con sẽ quay về. Vì thế, khi thấy bóng dáng của người con còn thấp thoáng từ xa, ông đã trông thấy. Đoạn Tin mừng mô tả người cha “chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để”. Đâu rồi một người cha theo văn hóa Đông Phương với định kiến “kính nhi viễn chi”, nào là phải có vẻ mặt cương quyết, khuôn phép uy nghiêm, cử chỉ từ tốn. Nhưng không, người cha chạy tới ôm con như một đứa trẻ chờ mẹ đi chợ về, tiếng nói của con tim khiến ông bỏ qua mọi khuôn phép vốn có.

Người con thứ dự định một bài diễn văn thật dài gồm hai phần: phần thứ nhất là “con đáng tội với trời và với cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”, và phần thứ hai là “xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Quả thật, tục ngữ có câu: “Áo mặc sao qua khỏi đầu”, “Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”. Nhưng dầu người con cái trong gia đình có như thế nào thì đối với cha mẹ, con vẫn là con, vẫn là đứa trẻ non nớt mà mình phải bao bọc. Chính vì thế mà người cha đã cắt ngang, không cho anh nói phần thứ hai để tránh cho anh sự nhục nhã, và cũng để cho thấy lòng tha thứ vô điều kiện của ông đối với con mình. Còn tế nhị hơn nữa, ông phục hồi lại địa vị làm con của người con thứ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!” Việc người con trở về đáng để vui mừng: “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Ông sẵn sang thứ tha để mở cánh cửa cho con mình trở thành một con người mới, có một khởi đầu lại.

Liệu người cha có thiên vị tình thương dành cho người con thứ không? Người con cả nghĩ như thế, nên anh căm phẩn trách cứ cha. Hẳn là chúng ta cũng đồng cảm với người anh. Nhưng cùng nghe kỹ lại xem: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê để con ăn mừng với bạn bè”. Những lời trách cứ này là những lời đạo mạo của người Pharisêu tự kiêu xem mình tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, coi mình tốt lành và sẵn sàng lên án tội lỗi của người khác một cách không thương tiếc. Người con cả sống với cha nhưng anh đâu coi ông là cha của mình mà như tương quan ông chủ với đầy tớ, vâng lời cha mà như là thi hành lệnh của chủ, sống với cha mà đếm từng năm tháng, và kể công trách móc cha.

Tệ hơn nữa, anh dùng từ “còn thằng con của cha kia”, vì tính ghen tỵ nhỏ nhen, anh sẵn sàng cắt đứt tình anh em với người em mình khi nó hoạn nạn, điều này cũng đồng nghĩa với việc anh cắt đứt tình cha con. Anh đang ở nhà đó, nhưng lòng anh đã ra đi, vì thế anh cũng cần phải sám hối và quay về.

Cách xử sự của người cha dành cho người con thứ đi hoang thế nào thì ông cũng xử sự bao dung với đứa con cả ganh tỵ như thế. Với giọng nhất mực trìu mến, người cha nói với con đầy tâm tình: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con”. Đây là một lời đầy tế nhị để nhắc khéo cho cậu rằng ông cần “tình cha con” chứ không phải là “nghĩa chủ tớ”. Ông yêu thương, chẳng tiếc gì với con thứ, thì cũng vậy, những gì của ông cũng là của con cả.

Xét mình trong mùa Chay Thánh này, chúng ta nhận thấy dáng vấp của chúng ta trong hình ảnh của người con thứ. Được sống trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa qua gia đình, xóm làng, đồng nghiệp, giáo xứ, nhưng chúng ta vẫn cố tình “đi hoang” khi chúng ta làm biếng cầu nguyện, đọc kinh, dự lễ, lại phạm tội trọng mất lòng Chúa. Có khi chúng ta thấy dáng vấp của chúng ta nơi người con cả kiêu ngạo, ích kỷ, xét đoán, nói xấu, ghen ghét anh chị em mình. Nhiều lúc chúng ta cũng tưởng rằng mình đang giữ đạo rất tốt, tham dự Thánh lễ Chúa nhật đều đặn, giữ Mười Điều Răn chỉ vì sợ Chúa phạt… Chúng ta cần nhìn lại thái độ sống của mình với Chúa trong tương quan cha-con hơn là nghĩ đến việc xét xử, bằng không chúng ta chỉ sống giữ luật vì sợ sệt hơn là yêu mến.

Người cha năn nỉ người con cả bước vào tham dự niềm vui đoàn tụ. Vậy chúng ta hãy tự trả lời cho câu hỏi: Người con cả có chịu bước vào nhà không? Mùa Chay là mùa hoán cải, mùa trở về. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta mạnh dạn đứng dậy và quyết tâm trở về với Chúa, làm hòa với anh chị em, nối lại sự nguội lạnh trong đời sống gia đình giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, giữa tình anh chị em với nhau. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ