Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 37
Tổng truy cập: 1438644
ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA
ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Bị bắt quả tang phạm tội là điều đáng xấu hổ. Nhưng nếu tội đó là tội ngoại tình thì thật là kinh khủng.
Ta cần hình dung người phụ nữ ấy, xốc xếch, rối bù, bị lôi đi, mắt cúi xuống tránh những cái nhìn khinh miệt.
Trời tang tảng sáng, nơi Đền Thờ Giêrusalem, Đức Giêsu đang ngồi giảng dạy cho đám đông. Chị ta bị đặt trước mặt Ngài, đứng ngay giữa. Các kinh sư và pharisêu hí hửng với cái bẫy của mình. Người phụ nữ này thật là một cơ may hiếm có để họ có bằng chứng tố cáo Ngài.
"Luật Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng người này. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?".
Quả là một câu hỏi bất ngờ, lịch sự và nham hiểm.
Đức Giêsu không thể nói ngược với luật Môsê, và cũng không thể nói ngược với trái tim của mình. Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ nguệch ngoạc trên đất. Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự vào hay Ngài đang suy nghĩ cho ra câu trả lời thích hợp.
Thời gian thinh lặng trôi qua, các kẻ tố cáo sốt ruột. Họ đắc thắng gặng hỏi, tưởng Ngài bị dồn vào thế bí.
"Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi." Ngài trả lời, rồi lại cúi xuống viết trên đất. Câu trả lời của Ngài bất ngờ vang trong tĩnh lặng, bắt người ta phải trở về đối diện với lòng mình. Ai dám tự hào mình vô tội?
Có bao tội bất trung nặng chẳng kém tội ngoại tình.
Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị bắt quả tang.
Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và ước muốn.
Khi tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình. Không thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác.
Các kinh sư và pharisêu đã khiêm tốn xét mình. Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội. Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước. Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ. Họ ra đi, để lại hai người mà họ tố cáo và định tố cáo. Cuối cùng chỉ còn lại người đáng thương và chính Tình Thương.
Bầu khí trở nên nhẹ hơn, êm hơn cho cuộc đối thoại.
Đấng duy nhất có thể ném đá lại nói: "Tôi không lên án chị đâu! Chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa."
Lắm khi việc áp dụng luật lại dẫn đến bế tắc.
Ném đá quả là một hình phạt răn đe hữu hiệu, nhưng lại không ích lợi gì cho người phạm tội.
Đức Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người, Ngài còn làm sống lại một đời người.
Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã, nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ.
Ngài không dung túng cái xấu, nhưng Ngài khơi dậy cái tốt còn đang yên ngủ nơi người phụ nữ và cả nơi các kinh sư.
Gợi Ý Chia Sẻ
Chỉ có tình thương mới biến đổi được con người. Bạn có tin điều đó không? Bạn có tin người phụ nữ ngoại tình sẽ đổi đời không?
Để sống với nhau cần có luật lệ và nguyên tắc. Có khi nào bạn thấy luật lệ bóp chết con người không? Cần phải làm gì để tránh rơi vào những nguyên tắc cứng nhắc?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa: vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con.
2.Học hỏi Phúc âm: CN 5 Mùa Chay - Ga 8,1-11
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
CÂU HỎI
1. Cho biết bối cảnh xảy ra câu chuyện ở bài Phúc âm này (ở đâu, khi nào). So sánh Ga 8,1-2 với Lc 21,37-38; 22,39. Bạn có nhận xét gì không?
2. Đọc Ga 8,1-6a. Đâu là mục đích của các kinh sư và người Pharisêu khi họ đưa chị này đến với Đức Giêsu? Đâu là cái bẫy họ đang giăng ra cho Ngài?
3. Đọc Lê-vi 20,10; Đệ nhị luật 22,22-24. Bạn biết gì về luật này?
4. Đọc Ga 8,6. Đâu là cử chỉ và thái độ của Đức Giêsu trước câu hỏi của họ: "Thầy nghĩ sao?"
5. Đọc Ga 8,7-8. Đức Giêsu có trả lời trực tiếp câu hỏi trên của họ không? Ngài đã làm gì sau đó?
6. Đức Giêsu đã cúi xuống, viết trên đất, và ngẩng lên mấy lần? Ngài đã tạo ra không khí tĩnh lặng bằng cách nào?
7. Đọc Ga 8, 10-11. Bạn nghĩ gì về cuộc trò chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ?
8. Qua cách hành xử của Đức Giêsu, bạn thấy Ngài có coi nhẹ tội ngoại tình không? Bạn thích cách hành xử này ở những điểm nào?
9. Câu chuyện đã được giải quyết cách êm đẹp không ngờ. Bạn có thấy như vậy không?
GỢI Ý SUY NIỆM: Theo bạn, khuôn mặt của Đức Giêsu trong bài Phúc âm này có vừa nhân từ, vừa oai nghi không? Bạn rút được bài học nào từ đoạn Tin Mừng này?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Cuộc gặp gỡ giữa người phụ nữ với Đức Giêsu diễn ra vào lúc tảng sáng, ở Đền Thờ Giêrusalem (Ga 8,2). Đọc Lc 21,37-38; 22,39 ta thấy Đức Giêsu có thói quen đến núi Ô-liu (Cây Dầu) để cầu nguyện và ngủ lại đó vào ban đêm, rồi khi trời sáng, Ngài lại vào Đền Thờ để giảng dạy cho dân chúng. Gioan 8,1-2 cũng cho thấy điều đó.
2. Mục đích của các kinh sư và người Pharisêu khi đưa người phụ nữ đến với Đức Giêsu là “để thử Người, nhằm có cớ tố cáo Người” (Ga 8,6). Họ giả bộ hỏi ý kiến của Đức Giêsu về chuyện có ném đá chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình hay không (Ga 8,5). Đây là một cái bẫy. Nếu Đức Giêsu trả lời không, thì Ngài đi ngược với Luật Môse. Nếu Ngài trả lời có, thì Ngài đi ngược với lòng thương xót nơi mình.
3. Luật Môse đã truyền dạy nằm trong trong sách Lê-vi 20,10 và sách Đệ nhị luật 22,22. Theo luật này thì phải xử tử cả hai người nam nữ phạm tội ngoại tình. Tuy nhiên, luật này lại không bảo phải xử tử bằng cách ném đá. Chỉ bị ném đá nếu người phụ nữ là một trinh nữ đã đính hôn mà lại quan hệ với một người đàn ông khác ở trong thành, khi đó cả hai sẽ bị ném đá (Đnl 22,23-24). Còn trong bài Tin mừng này, chúng ta không chắc người phụ nữ này là một trinh nữ đã đính hôn, và cũng không thấy mặt người đàn ông đã phạm tội với chị.
4. Trước câu hỏi mà Đức Giêsu thừa biết là một cái bẫy, Ngài đã không trả lời. Vì đang ngồi giảng dạy đám đông (Ga 8,2) nên bây giờ Ngài “cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất” (Ga 8,6b). Đức Giêsu cứ viết và họ cứ tiếp tục hỏi cùng một câu hỏi. Chắc họ thích thú và đắc thắng vì thấy Ngài bị kẹt trong cái bẫy do họ giăng ra. Họ có thể nghĩ là Ngài muốn tránh câu hỏi này hay không biết cách trả lời.
5. Cuối cùng, Đức Giêsu đã ngẩng lên trả lời. Ngài không trả lời đúng vào câu hỏi của họ, ném đá hay không ném đá, nhưng Ngài nói: người đầu tiên được phép ném đá chị này là người nào không có tội. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất (Ga 8,7-8). Nhiều tác giả phỏng đoán xem Ngài đã viết gì, nhưng thực ra Ngài viết gì, chúng ta không rõ. Chỉ biết Đức Giêsu viết bằng ngón tay, giống như ĐỨC CHÚA đã viết bằng ngón tay trên hai bia đá Mười Điều Răn (Xh 31,18). Hơn nữa, hai dạng động từ “viết” được dùng ở Ga 8,6b (katégraphen) và ở Ga 8,8 (égraphen) cũng là những động từ được bản LXX sử dụng khi dịch Xh 32,15. Câu này nói về việc ĐỨC CHÚA viết trên hai bia đá.
6. Đức Giêsu cúi xuống, viết trên đất và ngẩng lên hai lần (Ga 8,6b-7; 8.10). Qua hành động cúi xuống viết và không nói gì, Ngài tạo ra được khoảng lặng cần thiết để làm dịu xuống sự hung hăng của những người tố cáo, và làm họ hồi tâm để xét lại chính mình. Hậu quả là có những người cao tuổi đã bỏ đi, vì thấy mình có tội (Ga 8,9a).
7. Qua cuộc trò chuyện của Đức Giêsu với người phụ nữ ngoại tình (Ga 8,10-11), có vẻ như Ngài ngạc nhiên vì chỉ còn mình chị ấy đứng đó, và ngạc nhiên vì không ai kết án chị. Câu nói của Ngài ở Ga 8,7 đã cứu chị, dù câu ấy cho phép người ta ném đá chị với điều kiện.
8. Đức Giêsu không là quan tòa kết án chị phụ nữ ngoại tình, nhưng Ngài cũng không coi nhẹ tội này: “Từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Ngài là người duy nhất vô tội, nhưng lại không tố cáo hay kết án. Ngài đã cứu mạng sống một phụ nữ có nguy cơ bị ném đá, nhưng Ngài cũng đòi chị ấy không được phạm tội nữa.
9. Đúng là câu chuyện có một cái kết êm đẹp. Người ta dùng sức mạnh lôi người phụ nữ tới, còn Đức Giêsu cho chị về trong tự do và bình an. Người ta định giăng bẫy tố cáo Đức Giêsu (Ga 8,6a) bằng cách tố cáo chị ấy. Đức Giêsu không mắc bẫy và giải cứu chị, cả xác lẫn hồn. Hơn nữa, những đối thủ của Ngài còn học được một điều tích cực: họ nhận ra mình là tội nhân.
3.Ai sạch tội ném đá đi
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Các sách Tin Mừng đã tường thuật ba phép lạ Chúa Giêsu cho người chết sống lại: người thanh niên con bà góa thành Na-in, Em bé con ông Giairô, và Ladarô. Nhưng việc Ladarô sống lại quan trọng hơn hết và mang nhiều ý nghĩa. Trình thuật này đặc biệt của Gioan.
Phép lạ này xảy ra trong một gia đình khá giả, gia đình của chị Matta, là một gia đình đã đón tiếp Chúa Giêsu mỗi khi Ngài giảng ở Bêtania. Theo trình thuật của thánh Gioan thì Chúa Giêsu xem các chị em của Ladarô như gia đình của mình. Cách đối xử của Ngài rất thân tình.
Ladarô lâm bệnh nặng khi Ngài đang đi giảng ở xa. Gia đình sai người cho Ngài hay, nhưng Ngài hình như không muốn can thiệp ngay lại nói một câu như không quan tâm cho lắm: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa, qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa sẽ được tôn vinh”. Như thế chứng tỏ Ngài có một chương trình rõ rệt, Ngài biết phải làm gì.
Ngài tiếp tục rao giảng. Vài ngày sau, Ngài nhắc đến với những lời mà các môn đệ cũng không thể hiểu ngay: “Ladarô, bạn chúng ta đã yên giấc rồi. Thầy đi đánh thức anh ấy đây”. Các môn đệ không hiểu, Ngài phải nói rõ: “Ladarô chết rồi”.
Chúa Giêsu làm phép lạ luôn là để chứng tỏ một khía cạnh nào đó trong sứ mệnh của Ngài. Ngài dùng một hoàn cảnh thực tế và giúp mọi người đạt đến niềm tin. Ngài đã hóa nước lã thành rượu ngon tại Cana là “để các môn đệ tin Ngài”. Ở đây, cái chết của Ladarô cũng là một dịp để Ngài tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa cho dân và để “nhiều người tin Ngài”.
Đến nơi, Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. Người Ngài gặp đầu tiên là chị Matta: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây thì em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”.
Chị Matta nói như thế có nghĩa là còn một niềm cậy trông nào đó, dù nó thật mong manh. Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu ngắn: “Em con sẽ sống lại”. Matta thuộc giáo lý nên trả lời: “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Chúa Giêsu khẳng định: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Tất cả câu chuyện xoay quanh câu nói lạ lùng này. Trên trần gian, chỉ có một mình Ngài mới có thể nói câu đó mà không sợ mình nói dối. Mọi người đều chết và cho đến tận thế, không ai thoát khỏi cái chết. Chỉ có Ngài là sự sống lại và là sự sống mà thôi. Điều này giúp chúng ta vững tin.
Chúa Giêsu còn hỏi chị Matta: “Con có tin thế không?” Matta tuyên xưng đức tin: “Con vẫn tin Thầy là Đấng Kitô, Đấng phải đến trong thế gian”. Chúng ta nhớ ngay đến Phêrô, ngày nào đó cũng đã tuyên xưng như thế: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”.
Chúng ta có tin như thế không?
Hôm nay Chúa muốn chúng ta nhìn lại đức tin củamình. Nếu chúng ta tin rằng Ngài là Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa Hằng Sống, thì cuộc sống chúng ta phải như thế nào?
Có lẽ bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng tất cả đều khác, không giống những người không có đức tin. Chúng ta sẽ không bồn chồn lo lắng về tương lai, không sợ sệt dù phải gặp gian nan hay sự thù hằn của kẻ vô đạo. Chúng ta luôn an vui thanh thản, bình an, vì Chúa bảo đảm tất cả, cuộc sống chúng ta nằm trong tay Ngài. Tin là cảm thấy mình không sống một mình mà luôn với Đấng đã yêu thương chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta.
Sau khi gặp Thầy, Matta về báo tin cho em là Maria: “Kìa Thầy đến và gọi em”.
Maria đang ngồi trong nhà và đang khóc em với mấy cô bạn. Nghe Thầy đến Maria đứng phắc dậy và chạy. Ai cũng tưởng cô chạy ra mộ để khóc em.
Gặp Chúa Giêsu, cũng một lời như chị Matta: “Nếu Thầy có ở đây thì em con đâu có chết”. Một câu dường như trách móc. Cô òa lên khóc và những người chung quanh cũng khóc theo. Thánh Gioan ghi nhận: “Thấy Maria khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến.”
Khi đứng trước cửa mộ, Chúa Giêsu lại rơi lệ và thổn thức trong lòng. Chúng ta có thể tự hỏi: tại sao Ngài biết sẽ cho Ladarô sống lại, tại sao Ngài lại khóc? Những người Do Thái ở đó không hiểu và ngạc nhiên: “Kìa xem ông ấy thương Ladarô biết bao!”
Chúng ta không thể hiểu chính xác, nhưng chúng ta có thể đoán rằng Ngài khóc vì thấy mấy chị em Ladarô phải đau khổ và trải qua một cơn thử thách nặng nề. Ngài khóc không phải vì Ladarô đã nặng mùi trong mồ mà vì thế gian đang tan rửa và nặng mùi trong tội ác của mình. Ngài đã từng khóc trên thành Giêrusalem, vì con người đã từ chối hồng ân của Chúa. Ngài vẫn còn khóc cho đến tận thế vì thế gian đã từ chối tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống, bằng những hình ảnh gợi lên niềm tin. Cái chết của Ladarô là một sự kiện điển hình nhất.
Trong biến cố này, Ngài chứng tỏ một cách hùng hồn, Ngài là chủ của sự sống, Là Sự Sống và là Sự Sống Lại. Những lần Ngài đã cho kẻ chết sống lại: Người thanh niên con bà góa thành Na-in, em bé con ông Giairô, người ta cũng kinh ngạc nhưng không gây một ấn tượng mãnh liệt như lần này.
Ngài ra mộ và truyền cất cửa mộ ra. (Theo tục lệ của người Do Thái, khi thân nhân nào về trễ, không thể dự đám tang, trong khi chưa nặng mùi thì người ta có thể yêu cầu giở cửa mộ cho người ta nhìn mặt người chết lần cuối). Tưởng Chúa Giêsu cũng yêu cầu như thế nên chị Matta ngăn lại: “Thưa Thầy, nặng mùi lắm rồi, Thầy”. Một lần nữa Chúa Giêsu lại nhấn mạnh: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng, nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa sao? Vinh quang Thiên Chúa được nhắc lại lần thứ hai.
Cửa mộ đã mở ra, nhưng Chúa Giêsu không vội vàng, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha vì Cha đã nhậm lời con, nhưng vì dân chúng quanh đây, nên Con nói để họ tin rằng Cha đã sai con.” Qua lời cầu nguyện này, chúng ta thấy rõ ý định của Ngài là mạc khải sứ mệnh thiên sai của Ngài. Người Do Thái có thể hiểu ngay Ngài là ai.
Cầu nguyện xong Ngài kêu lớn tiếng: “Ladarô, ra khỏi mồ”. Người chết lập tức chui ra.
Nếu chúng ta có mặt ở đó, lúc bấy giờ, chúng ta nghĩ sao? Chúng ta dám tin không? Thánh Gioan ghi lại: “Trong số những người Do Thái (có mặt tại đó) đã chứng kiến việc Chúa Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người”. Đó là kết quả hiển nhiên. Chúng ta không chứng kiến những điều lạ lùng như thế, chúng ta vẫn có thể được chúc phúc: “Phúc cho những kẻ không thấy mà tin”.
Thánh Phaolô đã tin mãnh liệt vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã trở thành tất cả của ngài. Ngài đã diễn tả niềm tin của ngài nhiều lần trong các bức thư của ngài. Hôm nay, chúng ta cũng vừa nghe nhắc lại: “Tôi coi mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu Kitô. Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và coi tất cả như rác, để được Đức Kitô”. Người là “Sự Sống lại và là Sự Sống”. Nhìn Ladarô sống lại, chúng ta có cảm thấy như thánh Phaolô đã nói: “anh em đã được chỗi dậy với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” không?
Nơi Ladarô, chúng ta nhìn thấy tương lai của chúng ta. Sự sống hôm nay mang hai chiều kích: chết cho thế gian và sống lại trong Đức Kitô. “Cái thân xác phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt và cái thân xác phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử”. Đó là hồng ân tuyệt diệu chúng ta đang nắm trong tay, đừng để nó suy tàn vì sự ham mê trần thế.
“Hãy nâng tâm hồn lên”. Giáo hội luôn nhắc chúng ta như thế. Chúa Giêsu muốn chúng ta “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian”, và hơn nữa, chúng ta có sứ mệnh thánh hóa trần gian. Hiến chế Giáo hội trong thế giới ngày nay của Công Đồng Vatican II nhấn mạnh một cách đặc biệt đến điểm này: Kitô hữu phải thánh hóa mọi thực tại trần gian, sử dụng trần gian để xây dựng Nước Chúa. Chúng ta đang sống cho sự sống lại. Cuộc sống chúng ta chỉ có ý nghĩa khi chúng ta quy mọi sự về với Chúa. Các tạo vật sẽ “không lệ thuộc vào cảnh hư nát mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng sự tự do và vinh quang”.
Sự sống đời đời mà chúng ta đang hướng đến đang ở đây, nơi bàn thờ hiến tế này. Để giúp chúng ta sống lại với Ngài, chính Chúa Giêsu chấp nhận đến với chúng ta bằng một tấm bánh. Ngài là Bánh Hằng Sống. Ăn lấy Ngài ngay hôm nay, chúng ta đã sống trong Ngài, chờ đợi vinh quang tỏ hiện: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”.
4.Tử hình hay cứu sống - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trong mùa Chay không ai quên được câu: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống” (Ed. 33, 11). Câu đó tỏ rõ lòng nhân từ của Thiên Chúa, nhưng con người lại muốn kết án tử hình nhau. Bài Tin Mừng cho thấy con người xử tử hình, còn Thiên Chúa lại cứu sống. Người ta đã mở một cuộc thăm dò dư luận về án tử hình, có nên bãi bỏ không? Một số đồng ý bãi bỏ, lý do là án tử hình không răn đe hữu hiệu kẻ phạm tội ác. Đa số ủng hộ luật tử hình, lý do là án tử hình làm người ta sợ không dám phạm tội ác.
Thực tế, hầu hết các nước trên thế giới vẫn duy trì án tử hình, chỉ trừ nước Thụy Sĩ và mấy nước Bắc Âu. Tại sao người ta đã lập ra án tử hình? Có lẽ án tử hình không có sức răn đe làm người ta sợ không dám phạm tội ác, cho bằng lý do trả thù như câu châm ngôn: “ác trả ác báo”, “mắt đền mắt, răng đền răng”, để trừng trị kẻ thù, để tiêu diệt những kẻ tranh giành địa vị và quyền lợi với mình: “Được làm vua thua làm giặc”. Vua tru di tam tộc kẻ thua, phe đảng này giết phe đảng kia, bọn cướp này giết bọn cướp kia, chỉ để chiếm quyền độc tôn thống trị, lợi lộc. Sở dĩ có chiến tranh chém giết lẫn nhau cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi. Vua Chúa cấm đạo cũng chỉ vì giữ uy quyền cho mình hay cho giáo phái, tín ngưỡng của mình. Thượng tế và kinh sư chỉ vì ghen tương trang giành quyền binh khi thấy “Toàn dân đến với Người” nên họ phải gài bẫy để đánh gục Đức Giêsu. Một trong những bẫy đó là họ dẫn đến trước mặt Người một phụ nữ ngoại tình và họ nói: “Người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Mosê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó, vậy Thầy nghĩ sao?”.
Nếu họ thành thực giữ luật Môsê, sao họ không xử đàn bà đó đi? Họ đang là hạng người có quyền thế trong xã hội Do Thái, còn Đức Giêsu lúc đó chỉ là thường dân. Họ quá ác ý nên Tin Mừng đã chú thích thêm: “Họ nói thế nhằm thử Người để có bằng chứng tố cáo Người”. Họ sẽ tố cáo Người thế nào?
Nếu Người tha cho kẻ ngoại tình, họ sẽ tố cáo Người phá luật Môsê, tức là phản đạo và thông đồng với kẻ tội lỗi, như vậy họ có quyền kết án tử hình Người.
Nếu Người kết án ném đá tội nhân, họ sẽ tố cáo Người đã phạm tội giết người với Chính quyền Đế quốc Rôma, vì luật Hoàng đế cấm người Do Thái không được xử tử ai. Như vậy, chính quyền đế quốc sẽ lên án tử hình cho Đức Giêsu. Họ còn có bằng cơ tố cáo Người đã hành động bất nhất, nghịch với đạo lý yêu thương cứu độ của Người.
Nếu Đức Giêsu mắc vào bẫy của họ, họ sẽ được lợi quá nhiều: Họ sẽ kết án Người cùng với đàn bà ngoại tình, đồng thời không còn ai tin Người là Đấng Cứu thế nữa. Thật là một nhục hình cùng cực, một âm mưu thâm độc, như sau này họ đã thành công kết án tử hình Người trên thập giá.
Trái hẳn với dã tâm gian ác của họ, Đức Giêsu đã hiền từ, lặng lẽ ngồi xuống âm thầm bãi bỏ án tử hình của loài người, với lý do Người viết trên cát câu thật chí lý: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Mắt Người đã nhìn thấu suốt tâm can của họ và vạch trần tim đen của họ như Thánh Augustinô nói: “Chúa đã viết tội từng người và họ đã từ từ rút lui”. Nếu họ dám ném đá người đàn bà ngoại tình thì họ phải ném đá mình nữa. Đúng như Người đã nói: “Họ thấy cái rác trong mắt người khác, mà không thấy cái xà trong mắt mình”. Rõ thật hạng giả hình: “Chân mình lấm láp lê thê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Đức Giêsu là người số một đã bãi bỏ án tử hình. Chỉ một mình Thiên Chúa mới hiên ngang bãi bỏ luật tai ác đó thôi. Ngài là Đấng ban sự sống, lại rất tôn trọng yêu quý sự sống của con người. Dù con người gian ác thế nào, Ngài vẫn lo cứu chuộc. Ngài tự nhận mình là thầy thuốc lo cứu chữa những bệnh nhân, Ngài đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào.
Sự sống dồi dào đó, Đức Giêsu đang ban cho chị phụ nữ bị kết án tử hình được tiếp tục sống: “Tôi không lên án chị đâu, thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Từ nay chị được sống dồi dào cả hồn lẫn xác vì chị vừa được tha khỏi bị ném đá và nhất là được tha tội; tâm hồn chị như “tù nhân Sion được Chúa đưa về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ, vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Đáp ca Tv. 125). Tâm trạng vui mừng của chị còn hơn các tù nhân lưu đày ở Babilon được tiên tri Isaia loan báo tin mừng sắp được giải thoát. Đức Giêsu đã mở con đường từ ái giải thoát chị, như Thiên Chúa đã mở con đường giữa đại dương giải thoát dân Israel an toàn trở về đất hứa. Đức Giêsu đã mở trong tâm hồn chị một dòng sông để tưới mát những khao khát của chị như Thiên Chúa đã khơi một giòng sông giữa sa mạc khô cằn cho dân Ngài được giải khát. Đức Giêsu đã xây dựng con người chị thành con Thiên Chúa luôn biết vui mừng ca ngợi Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã gầy dựng dân Israel thành một dân luôn biết ngợi khen Thiên Chúa (Bài I).
Bây giờ chị có thể nói như Thánh Phaolô rằng: “Tôi coi tất cả mọi sự chẳng thiệt gì, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu, vì Người, tôi đành mất tất cả và tôi coi tất cả như đồ bỏ để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Bài II).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết tự tố cáo và lên án mình để Chúa thương xót con và con được nghe những lời từ ái dịu ngọt rằng: Cha không kết án con vì Cha đến thế gian để hiến mạng sống Cha cứu độ con và cho con được biến đổi sống lại trong ánh sáng phục sinh của Cha.
5.Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 5 Mùa Chay
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay gợi lên sự tha thứ có sức mạnh giải thoát: đoạn tuyệt với quá khứ để mà hướng đến một cuộc sống mới.
Is 43: 16-21
Qua ngôn sứ I-sai-a, Đức Chúa loan báo rằng Ngài sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon: quên đi quá khứ ô nhục, nước hằng sống sẽ tuôn trào trong miền đất khô cằn.
Pl 3: 8-14
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô rút ra một bài học vĩ đại: đoạn tuyệt quá khứ gắn bó với luật Mô-sê để kết hợp với chỉ một mình Đức Ki-tô.
Ga 8: 1-11
Tin Mừng thuật câu chuyện người phụ nữ ngoại tình có nguy cơ bị ném đá. Khi ban cho chị ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đức Giê-su giải phóng chị khỏi tội lỗi và sự nhục nhã, đồng thời mở ra cho chị một cuộc sống mới.
BÀI ĐỌC I (Is 43: 16-21)
Đoạn văn này được trích từ “Sách An Ủi” của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ ở giữa những người lưu đày thời Ba-by-lon. Ông an ủi họ khi loan báo rằng họ sắp được giải phóng và hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem.
Những người lưu đày bất hạnh này nghi nan ngờ vực. Một biến cố như thế làm thế nào có thể xảy đến được? Họ đã mõi mòn ngóng trông gần suốt năm mươi năm rồi. Vị ngôn sứ cũng nhắc họ nhớ đến những việc kỳ diệu Đức Chúa đã thực hiện để giải phóng cha ông họ khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập: Đấng đã mở lối giữa sóng nước oai hùng để cho dân Do thái vượt qua Biển Đỏ và đã chôn vùi chiến mã với kỵ binh hùng mạnh của Pha-ra-ô trong lòng biển cả, lại không thể đánh bại đế quốc Ba-by-lon với binh hùng tướng mạnh sao?
Cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập được ghi khắc trong tâm trí của dân Ít-ra-en như biến cố tiêu biểu, bảo chứng cho những lần Thiên Chúa can thiệp trong tương lai để ra tay cứu giúp dân Ngài, đó là nền tảng đức tin và đức cậy của họ. Đó là những ý tưởng mà vị ngôn sứ gợi mở cho đồng bào của mình: Đức Chúa sẽ ra tay cứu độ họ. Không có lý do gì phải thất vọng cả.
1. Một thế giới mới:
Ngôn sứ I-sai-a kêu mời dân chúng đừng nhìn lại quá khứ như một niềm hối tiếc, nhưng hãy đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa để thấy một điều kỳ diệu Thiên Chúa sắp làm cho dân Ngài: “Đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Nay Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao?”. Ngôn sứ I-sai-a đặt mọi niềm hy vọng của mình vào vua Ba tư, vị vua tiến quân như vũ bảo và chắc chắn sẽ sớm đánh bại đế quốc Ba-by-lon.
Bằng những biểu tượng, vị ngôn sứ gợi lên giờ hồi hương trở về trong vinh quang, những giây phút lạ lùng đến mức sa mạc sẽ không còn vùng đất hoang vu khô cằn nữa, những loài dã thú sẽ không còn hung tợn nữa. Đó sẽ là như một cuộc tạo dựng mới.
2. Biểu tượng của nước:
Thế giới mới này sẽ sinh ra dưới dấu hiệu của nước: “Vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta được tuyển chọn được giải khát”. Vị ngôn sứ biết rất rõ rằng trên đường hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem, một trong những khó khăn sẽ là băng qua sa mạc Xy-ri Pa-lét-tin. Chẳng sao cả, Thiên Chúa sẽ cho nước tuôn tràn. Trong Kinh Thánh, đề tài nước không chỉ gợi lên yếu tố tự nhiên đem lại sự sống cho thiên nhiên, nhưng còn là biểu tượng sức sống thần thiêng. Đề tài này chạy xuyên suốt Cựu Ước; chúng ta có thể trích dẫn biết bao ví dụ. Mối liên hệ giữa nước và thần khí được gặp thấy trong Cựu Ước (Ed 47: 9) và sẽ được lấy lại trong Tin Mừng (Ga 7: 37-39).
3. Trở về cùng Thiên Chúa:
Linh đạo mà vị ngôn sứ gợi lên ở đây là cuộc trở về cùng Thiên Chúa, Ngài sẽ tha thứ và đổ tràn muôn phúc lộc của Ngài: “Ta đã gầy dựng cho Ta dân này, chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ta”. Vào Chúa Nhật V Mùa Chay này, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta lắng nghe lời kêu gọi của vị ngôn sứ thời lưu đày này, và qua những hình ảnh tiên trưng, hiểu cuộc sống phong phú của các bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Tẩy.
BÀI ĐỌC II (Pl 3: 8-14)
Đoạn thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê này được trích từ chương 3, trong đó thánh nhân cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái, đừng gắn bó với luật Mô-sê và tìm cách áp đặt vài đòi hỏi luật này trên những Ki-tô hữu gốc lương dân.
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô trình bày cho họ biết thánh nhân đã được hướng dẫn như thế nào để đoạn tuyệt với Lề Luật. Cung giọng vừa tâm sự vừa xác tín là nét đặc trưng của thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này, vì thánh nhân đã kinh qua những dằn vặt đau đớn mới có thể đoạn tuyệt với luật Mô-sê.
1. Đoạn tuyệt với quá khứ:
Thánh Phao-lô vừa mới kể ra tất cả những đức tính mà xưa kia thánh nhân đã tự hào tự phụ: “Tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi” (3: 5-7). Cũng vào thời kỳ này, thánh nhân viết cho tín hữu Ga-lát-ta: “Trong việc giữ đạo Do thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông” (Pl 1: 14).
Thánh nhân nhắc lại cuộc sống xưa kia của mình đã khiến đồng bào của ngài phải nể phục. Tất cả những mối lợi này cho phép thánh nhân được liệt vào hàng công chính, thì nay thánh nhân công bố với tín hữu Phi-líp-phê ngài xem như đồ bỏ đi, như đồ rác rưởi kể từ khi được biết Đức Ki-tô.
Cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh trên đường Đa-mát (thánh nhân ám chỉ một cách kín đáo) đã khiến cho niềm kiêu hãnh trước đây của thánh nhân bổng chốc tan thành mây khói. Thánh Phao-lô quả quyết rằng được như vậy, không phải do công trạng của thánh nhân trong việc tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng nhờ niềm tin vào Đức Ki-tô, đó là sự công chính nhưng không do Thiên Chúa ban. Một lời tự thú huy hoàng nhưng biết bao đớn đau.
2. Sự công chính là một thiên ân:
Ở đây, chúng ta gặp thấy đề tài cốt yếu về sự công chính do lòng tin chứ không do việc tuân giữ Lề Luật, đề tài mà thánh Phao-lô sẽ khai triển rộng lớn trong thư gởi tín hữu Rô-ma. Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê mô tả cho chúng ta nguồn gốc tâm lý và hiện sinh về đề tài này, nhờ đó tránh mọi lời giải thích sai lầm.
Đức tin mà thánh nhân đề cao là một đức tin huy động toàn thể con người. Người Ki-tô hữu được sánh ví như một lực sĩ chạy đua trên thao trường, nhất quyết dồn hết mọi sức lực của mình, lao mình về phía trước, chạy thẳng tới đích để mong chiếm lấy phần thưởng. Thay vì tuân giữ nghiêm nhặt những huấn thị nghi thức của Lề Luật, người Ki-tô hữu nhắm một điều thiện tuyệt mức: được biết Đức Ki-tô.
3. Biết Đức Ki-tô:
Thuật ngữ “biết” phải được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh mà thánh Gioan thường hằng sử dụng: một chuyển động của cả trí tuệ lẫn tâm tình, một sự kết hợp của cả khối óc lẫn con tim, một sự hiểu biết không suy luận nhưng dẫn đến mối tâm giao: “Vấn đề là được biết Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người”. Tiến trình hiểu biết này là tiến trình mà thánh Phao-lô theo đuổi. Lộ trình thông thường của người Ki-tô hữu thì ngược lại. Thánh Phao-lô cũng định nghĩa lộ trình ngay liền: “nhờ đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết”. Vả lại, đây là điều mà thánh nhân miệt mài sống trong sứ mạng của mình, khi theo đuổi cuộc đua vẫn chưa đến đích, nhưng “đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt”.
4. Bài học:
Bài học mà thánh Phao-lô muốn rút ra từ kinh nghiệm cá nhân của ngài, gởi đến các Ki-tô hữu Phi-líp-phê gốc Do thái này nhằm khai mở cho họ hiểu vấn đề đức tin của họ: đức tin là kết hợp với Đức Ki-tô chứ không gắn bó với những hình thức bên ngoài. Nguồn mạch và nguyên lý về sự tự do của người Ki-tô là ở đó. Về sự tự do tối thượng này, thánh nhân có thể nói ở nơi khác, khi nhắc nhở rằng điều cốt yếu của Lề Luật từ nay được chứa đựng ở nơi một nguyên lý duy nhất: mến Chúa và yêu người. Về vấn đề này, lời nhận xét trong sách “Mỗi Ngày Một Tin Vui” thật thích đáng: “Ki-tô giáo thiết yếu không chỉ là một hệ thống luân lý gồm những điều phải giữ hay phải tránh. Quan niệm Ki-tô giáo như thế dễ đưa người tín hữu đến thái độ tính toán so đo, tự phụ; sống đạo dễ trở thành một thứ biểu dương bên ngoài. Chúa Giê-su đưa chúng ta vào cốt lõi của đạo: đạo thiết yếu là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đối với con người; sống đạo là đón nhận tình yêu ấy và đáp trả với tất cả lòng tín thác và quảng đại” (“Mùa Vọng-Giáng Sinh, Mùa Chay-Phục Sinh”, tr. 158).
TIN MỪNG (Ga 8: 1-11)
Câu chuyện “Người phụ nữ ngoại tình” này là một trong những câu chuyện rất cảm động về tấm lòng xót thương của Đức Giê-su; tuy nhiên, đề tài này là đề tài rất tâm đắc của thánh Lu-ca chứ không của thánh Gioan. Xét về phương diện văn phong, ngôn từ, câu chuyện này gần với Tin Mừng Lu-ca hơn Tin Mừng Gioan. Ngoài ra, câu chuyện này không được gặp thấy trong các bản sao chép cổ nhất của Tin Mừng Gioan. Hơn nữa, các Giáo Phụ Hy-lạp dường như đã không biết đến bản văn này, ngoại trừ thánh Giê-rô-ni-mô (thế kỷ thứ tư) biết và chú giải câu chuyện này. Trong bản dịch La-tin của thánh nhân, câu chuyện cảm động này được đưa vào vị trí của Tin Mừng Gioan như hiện nay.
1. Bối cảnh:
“Sau đó, ai nấy trở về nhà mình. Còn Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống và giảng dạy họ”. Bài trình thuật bắt đầu từ buổi chiều sau một ngày Chúa Giê-su thuyết giáo trong Đền Thờ: “ai nấy trở về nhà mình” (7: 53), còn Chúa Giê-su thì lên núi Ô-liu qua đêm một mình, và sáng sớm Ngài trở lại Đền Thờ tiếp tục giảng dạy cho dân chúng như thói quen của Người. Bối cảnh này rất phù hợp với Tin Mừng Lu-ca: “Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu. Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong Đền Thờ để nghe Người giảng dạy” (Lc 21: 37-38).
Nếu câu chuyện người phụ nữ ngoại tình này thuộc về Tin Mừng Lu-ca, nó được định vị vào những ngày cuối cùng Đức Giê-su giảng dạy ở Đền Thờ, trước cuộc Tử Nạn của Ngài, và báo cho biết những cạm bẫy mà những đối thủ của Ngài giăng ra cho Ngài: nguồn gốc về quyền bính của Ngài, nộp thuế cho Xê-da, kẻ chết sống lại (Lc 20: 1-47).
2. Tiến thoái lưỡng nan:
“Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang”. Luật Mô-sê rất nghiêm khắc đối với tội ngoại tình, được đặt vào số những hành vi gây thiệt hại đến người thân cận. Người thân cận bị thiệt hại ở đây là người chồng. Tội không chung thủy của người chồng chỉ bị trừng phạt trong trường hợp gian díu với một người phụ nữ đã lập gia đình, vì làm thiệt hại đến người chồng của người phụ nữ này. Theo Luật Mô-sê, người phụ nữ ngoại tình, cũng như người tòng phạm, bị kết án ném đá (Đnl 22: 22-23).
Cạm bẩy mà các kinh sư và người Pha-ri-sêu giăng ra cho Chúa Giê-su tương tự với vấn đề nộp thuế cho Xê-da (Lc 20: 21-25). Nếu Ngài khuyên nên khoan dung tha thứ, thì Ngài vị phạm luật Mô-sê. Nhưng nếu Ngài tán thành việc ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài vi phạm luật Rô-ma theo đó người Do thái không được phép thi hành án tử (Ga 18: 31). Ngoài ra, nếu Ngài chấp nhận ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài mâu thuẫn với chính mình: tiếp đón những người tội lỗi và rao giảng tấm lòng xót thương của Thiên Chúa. Như vậy, câu hỏi của họ“Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” đặt Chúa Giê-su vào thế “tiến thối lưỡng nan”.
3. Thái độ của Chúa Giê-su:
“Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất”. Việc Chúa Giê-su giữ thái độ thinh lặng nêu lên biết bao điều. Trước hết, xem ra Ngài không quan tâm đến vấn đề này, vì có những quan tòa ở Giê-ru-sa-lem, Ngài không phải thay thế vai trò của họ; đó không là trách nhiệm của Ngài. Tuy nhiên, lập luận này không thể đứng vững, vì trái ngược với cách hành xử thông thường của Ngài: làm thế nào Ngài có thể khoanh tay đứng nhìn để cho người ta hành động ngược lại tấm lòng xót thương của Ngài được chứ?.
Chúng ta thử nghĩ đến tình cảnh thật ê chề nhục nhã mà người phụ nữ này phải đối mặt. Người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và bị dẫn đến vào tảng sáng; đám người đến nghe Chúa Giê-su trong lòng Đền Thờ đã đông rồi. Mọi ánh mắt chất chứa những điều đê hèn, giả tâm, nhìn chòng chọc vào người phụ nữ. Đối với người phụ nữ này, những ánh mắt kia đã là những lời xét đoán rồi, hơn những lời xét đoán, còn là những lời kết án nữa; vì thế, việc Chúa Giê-su giữ thái độ im lặng cúi xuống viết trên đất là để tránh cho người phụ nữ đáng thương này thêm một ánh mắt xét đoán nữa. Tuy nhiên, Chúa Giê-su có sứ điệp phải truyền đạt cho chị; nhưng trước tiên, Ngài phải có việc cần tính sổ với những kẻ đòi lên án chị. Cái thinh lặng của Ngài là cái thinh lặng hùng hồn của các bậc hiền nhân. Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu đắc chí, tưởng rằng đã dồn Ngài vào thế bí nên cố nài ép Ngài trả lời.
4. Đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình:
Vì người ta cố nài ép, Đức Giê-su đứng dậy và đưa ra ý kiến của mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Câu trả của Đức Giê-su là câu trả lời bất ngờ nhất, nằm ngoài mọi dự đoán của mọi người. Chúa Giê-su không phải không thừa nhận Lề Luật; thậm chí khi phát biểu ý kiến của mình như vậy, Ngài dựa trên các bản văn của sách Đệ Nhị Luật: “Các nhân chứng phải là người đầu tiên phải tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp theo sau” (x. Đnl 13: 10 và 17: 7). Nhưng đồng thời, Ngài đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình. Thái độ này hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Ngài: nội tâm hóa luật luân lý.
Đoạn, tiếp tục từ chối ánh mắt phán xét của quan tòa, Đức Giê-su lại cúi xuống viết trên đất, để cho tâm trí mình chìm sâu trong cõi xa xăm nào đó như thử chẳng quan tâm đến những gì đang diễn ra chung quanh Ngài. Ở đây nữa, Ngài không muốn đưa ánh mắt nghiêm khắc nhìn những người mà Ngài mời gọi họ hãy tự phán xét chính mình; Ngài không muốn gây áp lực trên sự tự do của bất kỳ ai.
5. Chỉ còn lại một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương:
Mọi người đều đã bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất, những người sáng suốt nhất hay những người có tiếng lương tâm nhạy bén nhất do từng trải cuộc đời.
Thánh Âu-tinh nhận xét rất tinh tế: “Chỉ còn lại hai người: một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương”. Quả thật, cuộc đối thoại ngắn gọn sau cùng giữa Chúa Giê-su và tội nhân thật cảm động, không bút mực nào diễn tả được:
- “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”
- “Thưa Ngài, không có ai cả”.
- “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Chỉ mình Ngài là Đấng thanh sạch mới có thể ném đá chị; ấy vậy, Ngài đem đến cho chị lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa không là thái độ nhu nhược mà là sự giải thoát: “Từ nay đừng phạm tội nữa”. Một cái nhìn đầy yêu thương tha thứ mở ra một khởi điểm mới. Đó là thế quân bình tế nhị giữa hai nhân đức gần như mâu thuẫn nhau: sự công bình không cho phép Chúa Giê-su dung thứ tội lỗi, nhưng lòng xót thương buộc Ngài phải tha thứ tội nhân. Tội nghịch lại Thiên Chúa và anh chị em của mình phải loại trừ, nhưng tội nhân là đối tượng lòng yêu thương của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ đánh mất niềm hy vọng vào khả năng hoán cải của bất kỳ một ai. Như vậy, Luật không bị hủy bỏ như vài người lo sợ, nhưng trở nên “nhân đạo”, mở ra con đường sống và cứu độ. Thánh Giáo Phụ I-rê-nê đã quả quyết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”.
Đây thật sự là một câu chuyện tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và cách thức Thiên Chúa cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo lẫn người phụ nữ bị tố cáo đều trải nghiệm nơi Đức Giê-su lòng thương xót hay tha thứ của Thiên Chúa. Những người tố cáo thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, nên họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng xót thương với người thân cận. Người phụ nữ đã được cứu thoát khỏi hoàn cảnh nguy hiểm và qua Đức Giê-su, đã trải nghiệm ơn tha thứ của Thiên Chúa. Hẳn là những người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác tín về đạo lý cứu độ của Đức Giê-su.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: SỐNG ĐỜI SỐNG THIÊN CHÚA (14/06/2025) .: BA BỘ MẶT (14/06/2025) .: BA NGÔI Ý NGHĨA (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU (14/06/2025) .: SỐNG MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM MỘT CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: HAI GIỜ TRONG MƯA (14/06/2025) .: GIA ĐÌNH KITÔ HỮU HIỆP THÔNG NÊN MỘT (14/06/2025) .: TÌNH YÊU KỲ DIỆU (14/06/2025) .: THIÊN CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU (14/06/2025) .: TOÀN BỘ SỰ THẬT (14/06/2025) .: GIẢNG LỄ CHÚA THÁNH THẦN (07/06/2025) .: CHÚA THÁNH THẦN ĐẤNG THÔNG BAN MỌI SỰ (07/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam