Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 81

Tổng truy cập: 1439737

ĐỨC TIN

Đức tin

 

Có hai loại đức tin. Loại thứ nhất là đức tin của những người tin tưởng vì họ đi theo truyền thống của tổ tiên, họ mạnh mẽ duy trì truyền thống đức tin ấy. Đây có thể gọi là đức tin thừa hưởng. Loại thứ hai có thể được gọi là đức tin cá nhân. Có một sự khác nhau quan trọng giữa hai loại ấy. Người sở hữu một đức tin thừa hưởng hoặc kế thừa có lợi thế là họ không bị cám dỗ dễ dàng. Cả khi phải đương đầu với những lý lẽ triết học có thể nói ngược lại đức tin của họ. Đức tin này được duy trì mạnh mẽ vì thuộc về truyền thống mà họ thừa hưởng từ tổ tiên họ. Ngoài ra họ không bao giờ lệ thuộc vào tư duy triết học. Nhưng họ cũng có những sự bất lợi. Đức tin của họ thường không có lý luận hoặc suy tư vững chắc, và thường là một đức tin của tập quán và lề thói cổ xưa.

Người sở hữu một đức tin cá nhân cũng có một lợi thế. Họ đã khám phá Thiên Chúa với lý lẽ của họ, và vì thế, lý lẽ này rất mạnh trong đức tin của họ. Nhưng họ cũng có một điều bất lợi. Họ có thể bị thuyết phục bởi lý luận, và nếu đối đầu với những lý lẽ chống lại mạnh mẽ, họ có thể bị cám dỗ bỏ đức tin. Để có thể chống cự lại những thử thách, đức tin phải có nền tảng trong những gì vượt xa hơn kinh nghiệm cá nhân của mình.

Những người có được đức tin của họ theo hai cách trên được hưởng lợi thế mỗi cách. Họ phụ thuộc mạnh mẽ vào truyền thống của tổ tiên, nhưng đồng thời được hưởng ưu điểm của khả năng tư duy những sự vật khách quan. Vì thế, họ có được đức tin tốt nhất và hoàn hảo nhất.

Sinh ra trong đức tin chưa đủ. Một đức tin thừa hưởng là một đức tin đã qua sử dụng và có thể rất trống rỗng. Nói rằng: “Cha mẹ tôi là những tín hữu” chưa đủ. Mỗi thế hệ phải tòng giáo lại. Có người đã nói rằng nhiều người đi lễ không tốt hơn những người ngoại giáo tân tòng. Điều này xem ra khắt khe quá. Tuy nhiên, chúng ta thấy nhiều khuôn mặt buồn chán và mệt mỏi trong nhà thờ, khuôn mặt của những người đến trễ và bỏ ra về khi thánh lễ chưa xong.

Câu hỏi mà Đức Giêsu hỏi các tông đồ là câu hỏi quan trọng nhất trong Tin Mừng. Nó liên quan đến căn tính của Đức Giêsu. Người hỏi họ câu hỏi ấy không phải vì Người mà là vì họ. Một câu hỏi bắt người ta phải suy nghĩ về niềm tin của họ.

Trước tiên Người hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?” Các môn đệ thuật lại với Người. Những câu đáp là những câu không trúng. Kế đó, Người quay lại họ và hỏi “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Và Phêrô đáp: “Thầy là Đấng Kitô”. Đấng Kitô có nghĩa là Đấng Mêsia. Thánh Matthêu đã ghi lại câu trả lời của Phêrô như sau: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đây là cốt lõi của đức tin trên đó Giáo hội được xây dựng.

Điều quan trọng là chúng ta phải đưa ra câu trả lời của mình tức là có khả năng khẳng định giá trị và niềm tin của mình như những Kitô hữu. Nếu chỉ lặp lại những câu trả lời chính thức sẽ không đủ. Chúng ta phải làm cho đức tin của mình thành xác tín, khi sống đức tin ấy và để nó ảnh hưởng lên đời sống chúng ta. Đức tin của cha mẹ chúng ta không phải là đức tin của chúng ta chừng nào chúng ta chưa tự mình bước đi.

Chúng ta cần trưởng thành trong sự hiểu biết đức tin. Chúng ta phải tin bằng chính niềm xác tín của bản thân. trong Giáo hội, càng có nhiều người như thế, thì Giáo hội càng được thiết lập vững vàng trên đá tảng.

Rõ ràng Phêrô không hoàn toàn hiểu hết những lời ông nói. Khi ông thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia, ông không biết Đức Giêsu là một Đấng Mêsia đau khổ. Đó là một điều ông phải học biết và học biết một cách khó khăn.

Phêrô đã thực hiện một tuyên xưng hoàn hảo về đức tin. Ông có một đức tin hoàn toàn đúng với ngôn ngữ của ông. Nhưng khi phải hành động theo đức tin ấy, ông thất bại. Điểm kém cỏi nhất của ông là khi ông chối Chúa. Điều này cho chúng ta thấy rằng chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa, không chỉ để tuyên xưng đức tin, mà còn để sống đức tin ấy.

 

 

 

 

 

53. Việc làm

 

Bà O’Reilly đã nhận được tin một người láng giềng bị đau nặng. Bà nói với người đã cho bà hay tin: “Hãy nói với bà ấy rằng tôi sẽ nhớ đến bà ấy trong lúc cầu nguyện và tôi hy vọng rằng bà ấy sẽ sớm bình phục”.

Và bà O’Reilly cũng tốt bụng như lời bà. Tối hôm đó, khi bà đọc kinh tối như thường lệ, bà đã cầu nguyện chân thành và sốt sắng cho người láng giềng. Bà nói với Chúa: “Lạy Chúa, con muốn cầu xin Chúa cho người láng giềng của con. Bà ấy bị bệnh rất nặng. Bà ấy cần được giúp đỡ, cần được an ủi”.

Khi cầu nguyện xong, bà cảm thấy khá hơn. Và tuy vậy, có một điều làm bà băn khoăn, áy náy. Bà ngồi xuống và nghĩ về điều đó. Rồi bà rơi vào một tình trạng thiu thiu ngủ trong đó bà nghe Thiên Chúa nói với bà: “Ta biết con rất quan tâm đến người láng giềng của con”.

“Vâng, thưa Chúa, con thật sự quan tâm” bà đáp lại với không ít niềm tự hào.

“Và Ta cũng biết rằng người láng giềng con cũng rất cần sự giúp đỡ” Thiên Chúa nói.

“Con cũng nghe nói như thế”. Bà O’reilly nói.

“Con biết đấy, điều bà ấy cần là một người dành cho bà ấy chút ít thời gian”. Chúa nói.

“Thưa Chúa, Chúa hoàn toàn đúng. Con cũng nghĩ như thế”. Bà O’Reilly đáp.

“Bây giờ, con xin Ta giúp đỡ bà ấy, con không chờ Ta từ trời xuống để thăm bà ấy đó sao?”

“Không, thưa Chúa, con không mong Chúa làm thế. Cả người láng giềng của con cũng không mong điều đó. Thật vậy, điều đó làm bà ấy xúc động và chết mất”.

“Vậy, bà ấy không cần ai đến thăm sao?”

“Thưa Chúa, cần ạ”

“Ta có thể sai ai đến?”

Sau một hồi lâu thinh lặng. Bà O’Reilly nói: “Thưa Chúa, xin Chúa hãy sai con!”

Khi bà tỉnh giấc, bà biết chính xác điều bà phải làm.

Thánh Giacôbê nói: “Nếu như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không có đủ của ăn hàng ngày” mà chúng ta chỉ nói: “Anh, chị đi bình an”. Như thế là không đủ.

Với một người đang cần giúp đỡ mà chỉ nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho anh”. Như thế là không đủ. Chúng ta không nên nghĩ rằng đã làm được một chút gì mỗi khi chúng ta chuyển giao vấn đề cho chúa. Điều ấy nghe có vẻ như đùn đẩy mọi việc cho Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện cho người khác, thực ra chúng ta đang nói cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, này con đây. Xin Chúa hãy sai con”.

Lời cầu nguyện của chúng ta phải dẫn chúng ta đến hành động tích cực nào đó, dù chỉ là một hành động nhỏ. Nhưng cho dù là một hành động nhỏ như một cuộc viếng thăm cũng chứng tỏ đó là một cử chỉ có giá trị, bởi vì nó đưa chính chúng ta đến gần bên người đau khổ. Và làm điều đó là đặt chính mình vào nỗi đau khổ của họ. Chúng ta sẽ không tránh được một phần nỗi đau khổ ấy xâm nhập chúng ta.

Cầu nguyện cho người khác, hoặc mong ước họ được tốt lành, là một điều tốt. Nó mang lại cho họ sự an ủi vì họ biết rằng mình không cô độc. Nhưng chưa đủ. Đó là một đức tin chết. Nếu đức tin của chúng ta sống động, chúng ta cũng sẽ diễn tả sự quan tâm của chúng ta bằng hành động.

Phêrô hoàn toàn đúng khi nhận thức được căn tính của Đức Giêsu. Đức tin của ông trở nên hoàn hảo trong Lời Chúa. Nhưng đến lúc hành động, ông đã thiếu sót một cách đáng thương. Khi Đức Giêsu yêu cầu ông canh thức với Người lúc hấp hối ở trong vườn. Ông đã ngủ quên. Và cũng trong đêm đó, ông đã chối Đức Giêsu.

Có một đức tin chủ yếu chỉ trong lời nói. Và có một đức tin tuôn trào qua các công việc. Chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa không chỉ để tuyên xưng đức tin, nhưng còn để sống đức tin ấy.

 

 

 

 

 

54. Chân thực

 

G.K.Chesterton có một câu chuyện về người đàn ông nhân đức được nhiều người ưa thích. Lý do chính của tính quần chúng này là ông không thiếu những lời hài hước ý nhị. Không có một người lo lắng, ưu phiền nào mà không hỏi ông làm thế nào để luôn luôn hạnh phúc. Họ cho rằng ông sinh ra là một con người lạc quan.Nhưng rồi một ngày kia, người ta thấy ông chết trong một trường hợp bí ẩn. Người ta nghi ngờ có một trò bỉ ổi. Tuy nhiên trường hợp này làm lạc hướng điều tra của cảnh sát. Tình cờ, chính thám tử không chuyên của Chesterton là Fr. Browne đã giải quyết vụ việc. Phán quyết của thám tử là người đàn ông ấy đã tự tử.

Trước tiên người ta không chấp nhận phán quyết của Fr. Browne. Người ta không thể tưởng tượng một người hạnh phúc như thế lại có thể phạm tội tự sát. Nhưng như thế càng nổi rõ một khía cạnh nghiêm trọng của con người vui tính ấy. Người làm cho người khác cười thực ra là một người ưu phiền sâu xa. Nhưng ông không bao giờ có thể nói với bất kỳ ai ông thật sự cảm thấy thế nào.

Ông ấy có hai đời sống. Một đời sống rộng mở cho mọi người nhìn thấy và hiểu biết. Còn đời sống kia thì bí ẩn, chỉ một mình ông ấy biết. Trong đời sống công cộng, ông ấy là một người đàn ông mỉm cười với mọi người. Nhưng trong đời sống riêng tư, người ấy bị tổn thương và tuyệt vọng.

Ông cảm thấy phải sống theo sự mong đợi của những người khác để đổi lấy sự quan tâm và kính trọng. Ông không bao giờ có thể là chính mình. Sau cùng, ông đã nhận thức rằng cả đời ông được đặt trên nền tảng của một sự dối trá. Nỗ lực căng thẳng để duy trì một hình ảnh về mình đối với quần chúng đã trở thành quá to lớn đến nỗi ông không thể đối phó được nữa. Vì thế ông đã phạm tội tự sát.

Mọi người thích được nghĩ tốt về mình. Vì thế, người ta cố gắng tạo thành một hình ảnh thích hợp về mình trong con mắt của người khác. Họ sẽ làm bất cứ điều gì để duy trì hình ảnh đó.

Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu ít quan tâm đến điều người khác nghĩ về Người dù hình ảnh mà người khác có về Người rất thuận lợi. Người ta đã nhìn Người như một ngôn sứ lớn. Phêrô đã đi xa hơn. Ông nói Người là Đấng Kitô (tức là Đấng Mêsia).

Không thể phóng đại ý nghĩa mà người Do thái hiểu về Đấng Mêsia. Nhiều người nghĩ rằng đó là một lãnh tụ quân sự vĩ đại – một vua Đavid khác, Người có thể phục hồi sức mạnh quân sự trước đây. Rõ ràng đó là điều mà Phêrô đã nghĩ đến.

Nhưng đó không phải là ý tưởng về Đấng Mêsia của Đức Giêsu. Người nói với các tông đồ rằng Đấng Mêsia phải chịu đau khổ như Isaia đã tiên báo (xem bài đọc 1) Người không muốn họ có những hy vọng sai lầm để rồi sau này sẽ thất vọng, và cảm thấy rằng Người đã lừa dối họ.

Nhưng Phêrô không ủng hộ ý tưởng Đức Giêsu phải chịu đau khổ. Ông quyết tâm cứu Người khỏi một số phận như thế. Chúng ta có thể có thiện cảm với ông. Chúng ta muốn cứu người chúng ta yêu mến khỏi phải chịu khổ. Nhưng chúng ta càng yêu thương họ, chúng ta càng không có quyền đứng chắn con đường số phận của người ấy.

Đức Giêsu đã quở trách Phêrô. Người không có ý định sống theo sự mong ước của quần chúng. Người không bị ảnh hưởng bởi những gì mà người ta suy nghĩ, hoặc mong muốn, hoặc chờ đợi nơi Người. Người muốn chân thật với chính mình và với điều mà Thiên Chúa mong muốn nơi Người.

Dù đường lối của chúng ta là gì thì điều thật sự quan trọng là chúng ta phải là chính mình, cái bản ngã duy nhất của chúng ta và tốt nhất mà khả năng chúng ta có thể đạt được – một thành phần của dân mà Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành. Điều duy nhất quan trọng là phải chân thật với chính mình. Bất cứ đường lối nào khác đều sẽ là sai lầm không làm cho người ta đạt đến sự trưởng thành, hạnh phúc viên mãn và thánh thiện.

 

 

 

 

 

55. Vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa

 

Anh chị em thân mến

Có một đoàn lữ hành đặc biệt, đang vượt chặng đường dài với hành trang trên vai. Nhưng hành trang không phải bình thường, mà là, mỗi người mang một cây Thánh Giá. Địa hình của chặng đường khi thì bằng phẳng, khi thì rất khó khăn, nên mọi người đều thấm mệt. Trong số đó, có một người bỗng có một suy nghĩ rất hay. Anh ta cắt bớt đi một phần của cây Thánh Giá. Cũng từ đó anh ta bước đi nhẹ nhàng thoải mái hơn bao nhiêu người khác. Anh ta rất hài lòng về sáng kiến của mình. Nhưng rồi, khi đến một con suối, không có phương tiện gì để vượt qua, mỗi người chỉ còn cách dùng cây Thánh Gia làm chiếc cầu để vượt qua, sau đó, vác Thánh Giá và tiếp tục lên đường. Còn cây Thánh Giá đã mất đi một phần, giờ đây không còn xử dụng được trong trường hợp nầy, nên chủ nhân của nó đành phải ngồi lại bên bờ vực, một mình, cô đơn mà nhìn mọi người từ từ rời xa mình.

“Mọi người chung quanh bảo Thầy là ai?” Tất cả mọi câu trả lời đều không được Chúa Giêsu chấp nhận. “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” - “Thầy là Đức Kitô”. Một câu trả lời được Chúa Giêsu chấp nhận. Nhưng rồi khi nghe Ngài nói về cuộc khổ nạn, thì cũng chính môi miệng đó, cũng chính con người đó, lại bị khiển trách nặng nề. Ngài gọi là satan có nghĩa là kẻ thù, vì đã ngăn cản việc làm của Thiên Chúa.

Phêrô đã theo Chúa Giêsu, nhìn thấy và biết những việc làm của Ngài. Ông cũng mới vừa được khen, ông ngở rằng những gì ông suy tính đều tốt đẹp, nên ông muốn hướng dẫn Đấng ông vừa tuyên xưng là Đức Kitô đi theo con đường của ông. Ông theo Chúa nhưng sợ con đường mà Ngài dẫn đi, sợ những hành trang mà Ngài trao cho. Theo Chúa nhưng ông muốn mang những hành trang của chính mình, đi trên con đường của riêng mình và ông đòi Chúa phải ở bên ông. May thay, lời quở trách đã làm ông thức tỉnh, bài học tiếp theo đã hướng dẫn và giúp ông đi đến nơi đến chốn bình an. “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”.

Tâm trạng của Phêrô, cũng là tâm trạng cuả mỗi ngưới chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn tìm cho mình sự thoải mái, sung sướng cho thân xác. Chúng ta vẫn tự hào là người Công giáo. Chúng ta vẫn biết vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Chúng ta biết rất rỏ những gì Thiên Chúa muốn nơi con người chúng ta. Đôi khi chúng ta còn tự hào vì mình luôn vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa. Chính những lúc tự hào như thế, là những lúc chúng ta có hành động như Phêrô: kéo Ngài ra để khuyên can.

Cũng nhiều lần trong cuộc sống, Chúa Giêsu khiển trách chúng ta như đã khiển trách Phêrô ngày xưa. Phêrô biết lắng nghe, còn ngày nay, chúng ta vẫn phớt lờ, vẫn sống với niềm tự hào của chính mình và bước đi trong niềm tự hào đó.

Chúng ta vẫn sống, vẫn giữ đạo, hay nói cách khác là đang vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa. Nhưng coi chừng cây Thánh đã bị mất đi một phần. Bao nhiêu lần nó đã bị cắt mất đi vì những luồn lách của cuộc sống. Những lần thân xác được dung dưỡng để nó được thoải mái trong những cuộc vui không chính đáng. Những lần thân xác cảm thấy thỏa mản khi đạt được mục đích lợi nhuận mà bất cần đến sự chính đáng hay không chính đáng. Những lần chúng ta không chu toàn trách nhiệm chính đáng của một người trong xã hội, trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của mình trong gia đình, và với bao nhiêu người chung quanh. Đôi lúc chúng ta cũng mỉm cười mãn nguyện, vì cảm thấy mình khôn ngoan hơn bao nhiêu người khác vì những trò vặt như thế. Đó là những lần chúng ta đã cắt bớt đi Thánh giá cuộc đời của mình, để nó được nhẹ nhàn hơn. Chính những lúc thất bại, bị người đời chỉ trích, những lúc đó nếu biết lắng nghe, đó là lúc Chúa khiển trách và bảo chúng ta vác Thánh Giá hằng ngày theo Chú; những lúc đó Chúa cũng nói với chúng ta: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”. Nếu chúng ta không biết lặng thinh khiêm nhường cuối đầu nhận tội như Phêrô, thì chúng ta cũng sẽ không có được cuộc sống tốt đẹp như Ông.

Xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, xin cho chúng ta biết chấp nhận cuộc sống để biết vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa cho đến cùng.

 

 

 

 

 

56. Đức Giêsu.

 

Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.

Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri: họ đã lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan tẩy giả và họ cũng đã đóng đinh Giêsu.

Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính là Đức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy thì phải bỏ mình vác thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho đến chết.

Giêsu là ai? Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết:

. Quyển “The last temptation” (Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống trụy lạc, đĩ thõa. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.

Đó là một câu trả lời, rằng: Giêsu chỉ là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài được.

Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Đức Giêsu là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.

. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp trong quyển “Quovadis”: quyển truyện này lấy khung cảnh thời hoàng đế Néron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Đó là một cách để bảo đảm sự tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người cháu của hoàng đế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của người đẹp. Lúc đó bạo Cháu Néron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo đạo Đức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi trên đường thì Phêrô gặp Đức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi “Quovadis”, tiếng Latinh nghĩa là “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” Đức Giêsu trả lời: Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì con đã không dám chịu đóng đinh. Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng của các tín hữu Đức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.

Đó là câu trả lời: Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ mình vì Thầy!

Đức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viển vông không thể thực hiện. Là Con Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Đức Giêsu muốn giúp chúng ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài, phải bỏ mình đi, phải vác thập giá… Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. Chúa Giêsu đã tiên phong sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ làm theo Lời Ngài: Ai muốn theo ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời”.

Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu cho câu hỏi “Giêsu là ai?” Còn câu trả lời của chúng ta là gì? Nếu chúng ta trả lời như Phêrô “Thầy là Đức Kitô” thì chúng ta cũng hãy can đảm bỏ mình vác thập giá đi theo Thầy”.

 

 

 

 

 

57. Từ bỏ

 

Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: “Họa mi và bông hồng đỏ”. Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: “Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:

– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?

– Họa mi ơi! Em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?

Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.

– Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ?

– Họa mi ơi! Đời cần hoa chi cho thương đau?

– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.

– Được, nhưng phép mầu cần phải có mầu đỏ.

– Bằng mọi giá chị ạ.

– Bằng giá sinh mạng?

– Kể cả sinh mạng em.

– Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.

Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đóa hồng bí nhiệm đỏ thắm.

Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đóa hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đóa hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.

Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.

Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể “được cả” mà cũng có thể “ngã về không”. Chính cái bấp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.

Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.

Nhưng “Từ bỏ chính mình” không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.

“Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống”. Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì “Ai biết chết thì sẽ biết sống”.

 

 

 

 

 

58. Từ bỏ và vác thập giá

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ với đòi hỏi hết sức lạ lùng: “từ bỏ và vác thập giá”. Những ai đáp ứng được yêu cầu ấy thì mới “xứng đáng làm môn đệ Thầy”.

Tại Xêdarê Philipphê, Chúa hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?”. Từ từ Chúa dẫn đưa các ông đến câu hỏi quan trọng nhất, xác tín nhất: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”.

Chúa Giêsu có thể tự giới thiệu về mình, tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Người đã không làm thế. Chúa muốn người môn đệ phải tự khám phá ra Thầy của mình là ai. Chúa muốn lời tuyên xưng của người môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực trong cuộc sống sinh hoạt với Người.

Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế, Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người. Con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Chúa không lừa mị, không hứa hẹn những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ đường ngay nẻo chính và muốn những ai theo Người phải dũng mạnh, can đảm, quyết liệt. Vì thế, Chúa nói thẳng thắn với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.

Muốn theo Chúa, các môn đệ phải “từ bỏ và vác thập giá”.

1. Từ bỏ

Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ bỏ, phải đặt tất cả dưới Người, phải yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ cần biết tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có đủ tiền bạc không. Muốn thắng trận cần có lính Tráng. Muốn theo Chúa phải từ bỏ. Từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người.

Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự phát triển. Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm nhất. Đứa trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới lớn lên.

Cuộc sống đặt con người trước những sự lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần từ bỏ như cờ bạc, rược chè, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp, gian dối… Cũng có những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn. Chẳng hạn, khi chọn trường học, chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng, chỉ chọn một mà thôi.

Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng quy tụ đọc giờ kinh hạt. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân để sống đời tận hiến cho Chúa…

Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình.

Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.

2. Vác thập giá

Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.

Thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng. Nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ tình yêu của Đấng Cứu Độ.

Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thập giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.

Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.

Tình yêu như là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến với niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.

Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nới ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là Thánh Giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh thiêng. Sự thánh thiêng ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.

Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.

 

 

 

 

 

59. Anh em bảo Thầy là ai?

(Trích trong ‘Manna’)

 

Suy Niệm

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14), sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.

Hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài, đã cầu nguyện và tham dự các bí tích…

“Còn anh, anh bảo Thầy là ai?”

Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời. Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.

Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm, kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Đức Giêsu. Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.

Đời tín hữu là một hành trình tìm kiếm không ngừng để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Đức Giêsu.

Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú. Chúng ta chỉ mon men đến gần, nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy. Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.

Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Đức Giêsu chỉ là bác thợ. Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.

Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài để đón nhận một Đức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.

“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”.

Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.

Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô: “Thầy là Đức Kitô”, và hơn Phêrô: “Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa”. Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.

Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi, Đức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ. Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.

Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối, tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?

Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật, tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?

Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?

“Người ta bảo Thầy là ai?”

Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Đức Giêsu.

Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.

Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài. Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở, nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.

Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Đức Giêsu.

Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.

Đức Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).

Chúng ta ao ước nói: “Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu”.

Gợi Ý Chia Sẻ

“Đức Giêsu là ai?” Bạn hãy trả lời câu hỏi này cho một người bạn trẻ đang tìm hiểu đạo.

Tin là bước theo Đức Giêsu trên con đường khổ giá. Bạn có thấy theo Chúa là khó không? Đoạn Tin Mừng hôm nay có giúp bạn vác thập giá một cách an bình hơn không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,

Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.

Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh.

Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được.

Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?

Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.

Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.

Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu.

Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ