Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 89

Tổng truy cập: 1435830

ĐỨC GIÊSU ĐẤNG CỨU ĐỌ NHÂN LOẠI

ĐỨC GIÊSU ĐẤNG CỨU ĐỌ NHÂN LOẠI

(Suy niệm của Lm. Duy Khang)

Thánh Gioan tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, và ông rất vinh dự được làm người dọn đường cho Đấng Cứu Thế sắp đến. Hôm nay, khi thấy Đức Giêsu đến với ông, ông đã mạnh mẽ công bố với mọi người Do Thái rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”.

Ông Gioan tẩy giả làm chứng về Đức Giêsu đích thực là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha tuyển chọn, thánh hiến bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần để thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại, trong tư cách là Đấng Messia.

Ông Gioan tẩy giả đã sử dụng đến hai biểu tượng tuyệt đẹp, đó là con chiên: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Con chiên là một con vật quen thuộc đối với dân Do Thái ngày xưa, được nhắc nhiều lần trong Kinh Thánh. Hình ảnh con chiên rất có ý nghĩa, nhằm mô tả Đức Giêsu là con chiên chiến thắng, con chiên như người tôi trung, và con chiên như con chiên trong Lễ Vượt Qua.

Đức Giêsu là con chiên chiến thắng. Theo sách Khải Huyền thánh Gioan tông đồ, con chiên đã chiến thắng quyền lực sự dữ trên trái đất (x. Kh 17,14). Thánh Gioan còn khẳng định: “Bây giờ anh em biết Đức Giêsu đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi” (1Ga 3,5); và “Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá hủy công việc của ma quỷ đã làm” (1Ga 3,8). Như vậy, quả không sai khi ông Gioan tẩy giả mô tả Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa là Đấng phá bỏ tội lỗi của thế gian.

Đức Giêsu là con chiên như người tôi trung, như sách ngôn sứ Isaia mô tả trong chương 42 và 53. Người Tôi Trung đã gánh hoặc chuộc những tội lỗi của nhiều người (x.Is 53,4-12). Cũng vậy, bằng cái chết của Người, Chúa Giêsu đã xóa tội hoặc đã gánh tội cho thế gian. Nhờ những vết thương của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn và sự chết của Người, đã chữa lành tội lỗi của chúng ta (1Pr 2,25; Is 53,5).

Đức Giêsu là con chiên như con chiên trong Lễ Vượt Qua. Đức Giêsu bị kết án tử vào ngày lễ Vượt Qua (Ga 19,14). Người là con chiên mà dân Do Thái bôi lên cửa, làm dấu để được cứu thoát, nói đến trong sách Xuất Hành (12,46), con chiên đã hy sinh (Kh 5,9), con Chiên đổ máu mình trên thập giá tẩy rửa tội lỗi nhân loại và giải thoát khỏi sự chết.

Tóm lại, con chiên được ông Gioan tẩy giả mô tả, như một lời giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại. Mặc dầu Người vô tội, nhưng lại chấp nhận gánh lấy tội lỗi của nhân loại vào thân thể của Người, đến độ, Người đã dùng chính cái chết của mình để giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết. Hôm nay, Gioan tẩy giả đã làm chứng và lời chứng của ông đã thành hiện thực trong công trình cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô.

Hôm nay, trong mỗi Thánh lễ, chủ tế đều nhắc lại lời của thánh Gioan tẩy giả: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”, và mời gọi người Kitô hữu đón nhận Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta có Chúa Kitô ngự trong lòng, và sự sống của Người ở trong chúng ta.

Chúng ta hãy chiêm ngắm tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã dành cho chúng ta đến độ chết vì chúng ta. Chúng ta hãy làm chứng về tình yêu cứu độ của Người cho nhân loại. Chúng ta hãy sẵn sàng cộng tác với Giáo Hội bằng cách giúp đỡ cho người ta được thoát khỏi sự dữ và tội lỗi đang lan tràn trong gia đình, trong xã hội. Chúng ta hãy giúp cho những người xung quanh chúng ta sống niềm tin và hy vọng vào Chúa Giêsu là Đấng giải thoát và cứu chuộc của mọi người.

 

29. Để đến với Chúa.

Anh chị em thân mến.

Trong cuộc sống đời thường, thỉnh thoảng chúng ta nhìn thấy những chiếc xe cứu thương chở những bệnh nhân từ nơi nầy đến nơi khác. Bệnh nhân được chở đi vì nơi đó không đủ điều kiện, nên cần đưa đến một nơi khác có đủ điều kiện hơn để cho bệnh nhân được phục hồi nhanh chóng. Nếu nơi không đủ điều kiện mà nhà điều trị không cho bệnh nhân được chở đi, không giới thiệu nơi khác, mà cố trì hoãn để giữ bệnh nhân cho mình thì sẽ nguy hiểm cho cả hai: nguy hiểm cho người điều trị, vì không đủ khả năng, nhưng vì ích kỷ, sợ mất uy tín, mất quyền lợi nên không muốn cho bệnh nhân đi nơi khác. Ngoài ra còn nguy hiểm cho bệnh nhân, vì không được điều trị đúng cách. Cả hai đều phải lãnh hậu quả mà thực ra không ai muốn như thế. Nếu nhà điều trị biết được khả năng của mình, để biết giới thiệu cho bệnh nhân đến đúng nơi, thì mọi việc sẽ có kết quả hết sức tốt đẹp.

Gioan tẩy giả nhìn thấy được sứ mạng mà mình được trao phó như thế nào. Ông cũng nhận ra được giới hạn của sứ mạng. Đồng thời Ông cũng nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa trong sứ mạng của ông. Lúc đó uy tín của ông đã đầy tràn, mọi người rất ngưỡng mộ ông, nhưng ông không màn đến. Ông biết bỏ đi những gì không thích hợp, để nhận thức cách đúng đắn sự việc hiện tại. Sứ mạng của ông chỉ là loan báo để mọi người đến với Chúa, đem mọi người về với Chúa và giới thiệu Đấng Cứu Thế cho mọi người. Ông không ngần ngại, chuyển tất cả những gì mình có đến nơi an toàn hơn, thích hợp hơn, vì nó không hợp với khả năng của ông nữa. Ông giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người. Ông rút lui vì đã hoàn thành sứ mạng, rút lui cách khiêm nhường trong vâng phục.

Mỗi người có một tài năng riêng biệt. Tất cả mọi người đều cố gắng để tài năng của mình được phát triển tối đa. Nhưng cho dù con người có tài giỏi đến đâu chăng nữa, thì cũng có giới hạn. Mỗi người chỉ làm được một số công việc nào đó trong phạm vi hiểu biết và khả năng của mình. Ngoài ra, con người phải biết chấp nhận giới hạn của mình, có như thế, con người mới chấp nhận được khả năng của người khác và cuộc sống mới được phong phú và có ý nghĩa hơn. Nếu không nhìn thấy người khác, không biết chấp nhận người khác, và nếu càng không nhìn thấy được giới hạn của chính mình thì thật là nguy hiểm, vì như thế sẽ có một ngày mình không còn gì hết, mất tất cả và mất luôn chính mình.

Mỗi người trong chúng ta, Thiên Chúa đã trao ban cho một sứ mạng, đồng thời Ngài cũng ban cho tài năng để thi hành sứ mạng cho tốt đẹp. Mỗi người được ở trong một hoàn cảnh mà chúng ta ngỡ rằng đó là việc tự nhiên. Chúng ta được những điều may mắn, có lúc dường như bất ngờ. Chúng ta được ưu đãi hơn những người chung quanh. Mỗi người cũng có chút tài năng, chút địa vị. Mỗi người cũng đang có một công việc ổn định, và có lẽ trong việc làm, trong giao tiếp, chúng ta cũng được nhiều người mến mộ. Tất cả những điều đó chúng ta cho là rất bình thường, rất tự nhiên, nên chúng ta cứ sống cách bình thản. Nhưng có khi nào, chợt thoáng qua trong cuộc đời, chúng ta nhìn thấy tất cả những gì mình đang có và đang sống: đó là sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó và chúng ta phải có trách nhiệm chu toàn. Nếu nghĩ được như thế, chúng ta sẽ thấy được sự bình an trong tâm hồn cho dù những thất bại có xảy đến, chúng sẽ được nhẹ nhàng cho dù có những mất mát về vật chất cũng như tinh thần, chúng ta sẽ được vui mừng khi người khác được hạnh phúc. Khi đó chúng ta đang thi hành sứ mạng giống như Gioan Tẩy Giả. Ông biết nhìn thấy chính mình, biết giới thiệu nguồn sống đích thực cho mọi người, và điều quan trọng là ông ta biết trở về đúng vị trí mà sứ mạng được trao phó cho ông.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết nhìn thấy chính mình, chấp nhận những giới hạn, nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó để biết bằng lòng với những gì hiện tại và hoàn thành tốt đẹp.

 

30. Tôi tin – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

Có một câu chuyện đời xưa, mang tên “cây kiếm gỗ”, nội dung thế này:

Ngày xưa, có một vị vua ngày đêm lo lắng về sự an nguy cho vương quốc của mình, về kho báu của mình, và đặc biệt về ngai vàng của mình. Ông không tìm thấy bình an trong cuộc sống; các vị quan trở nên mối nghi ngờ, và tương lai trở nên nỗi ám ảnh sợ hãi cho ông.

Từ chốn cung điện nhìn xuống đám dân nghèo, ông cảm thấy như thèm muốn được như họ, vì ông thấy họ toát lên nỗi đơn sơ, chất phát và không lo lắng cho tương lai. Quá tò mò lối sống của dân nghèo, vị vua quyết định hóa trang thành người ăn mày để tìm hiểu nguyên nhân nào đã làm cho những dân nghèo được bình an và không lo lắng.

Ngày kia, vị vua giả dạng người ăn mày gõ cửa một người nghèo để xin ăn. Người nghèo mời người ăn mày vào và cùng chia sẻ một ổ bánh mì với thái độ hạnh phúc và yêu đời.

Vị vua giả dạng hỏi:

– “Điều gì đã làm ông hạnh phúc như vậy?”

Người nghèo đáp:

– “Tôi có một ngày rất tốt. Tôi sửa giày và kiếm đủ tiền để mua ổ bánh cho buổi tối nay.”

Vị vua giả dạng hỏi tiếp:

– “Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu ngày mai ông không kiếm đủ tiền mua bánh mì?”

– “Tôi có niềm tin vào mỗi ngày. Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Người nghèo đáp.

Sau khi ra về, vị vua muốn thử niềm tin người thợ giày. Ông ra lệnh cấm những người sửa giày dép hành nghề. Khi biết mình bị cấm hành nghề sửa giày dép, người thợ giày nhủ thầm: “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Ngay lập tức ông thấy một vài phụ nữ đang gánh nước ra chợ bán rau, ông xin được gánh nước thuê cho họ. Và hôm đó, ông kiếm đủ tiền để mua bánh mì cho buổi tối.

Tối đến, vị vua dưới dạng người ăn mày thăm người nghèo. Người nghèo vẫn thái độ ung dung, hạnh phúc với ổ bánh mì của mình. Hôm sau, vua ra lệnh cấm không cho phép hành nghề gánh nước thuê. Và cứ như thế, người nghèo đã thay đổi nhiều nghề khác nhau, nhưng nơi ông vẫn luôn có sự bình an và tin tưởng vào triết lý sống từng ngày cùa mình. Còn vị vua vẫn không thể nào hiểu nổi sự bình an và niềm tin của người nghèo kia. Mỗi lần bị cấm hành nghề, người nghèo vẫn thản nhiên tin rằng, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.”

Vì quá tò mò trước triết lý sống của người nghèo này, vị vua ra lệnh và dàn xếp để người nghèo làm lính cho cung điện. Thật đáng thương, người nghèo không được phát lương hằng ngày, nhưng hằng tháng. Dầu vậy, ông đã bán lưỡi gươm và có đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Tối đến, ông vẫn có bánh mì và vẫn hạnh phúc.

Vị vua giả dạng thăm ông và hỏi:

– “Hôm nay ông làm nghề gì mà kiếm tiến mua bánh mì?”

– “Tôi được làm lính cho vua.” Người nghèo đáp. Ông cũng đơn sơ kể rằng: “Làm lính nhận lương mỗi tháng, nên tôi đã bán lưỡi gươm thật và đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Sau khi có lương, tôi sẽ chuộc lại lưỡi gươm và như thế tôi sẽ có cuộc sống tốt hơn. Hiện nay tôi đang dùng lưỡi gươm bằng gỗ.”

Nhà vua giả dạng hỏi tiếp:

– “Nhưng nếu ông phải rút gươm ra vào ngày mai thì sao?” Người nghèo vẫn thản nhiên, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.”

Quả thật, hôm sau người ta bắt được một tên trộm và bị kết án xử chém. Vua yêu cầu người nghèo trong trang phục lính thực hiện việc này. Vì nhà vua biết rằng, với lưỡi kiếm gỗ, người nghèo này sẽ không thể thực hiện được việc này, và như thế để xem thử niềm tin vào triết lý sống từng ngày của ông có thể giúp ông hay không.

Tên tử tội quì mọp xuống chân anh lính và thống thiết van xin được tha mạng vì còn vợ và con nhỏ. Anh nhà nghèo trong tranh phục lính nhìn đám đông xung quanh và hô lớn tiếng:

– “Lạy Đấng Tối Cao, nếu người sắp bị hành quyết này là người có tội, thì xin cho con được phép thi hành lệnh của vua. Nếu người này vô tội, xin hãy biến lưỡi gươm này thành gươm gỗ.”

Ngay tức khắc, anh rút lưỡi gươm và lưỡi gươm anh cầm trên tay là lưỡi gươm gỗ. Đám đông đồng thanh la lên:

– “Đây là phép lạ,” và người bị kết án được tha.

Vị Vua truyền lệnh tha tên ăn trộm đồng thời tiến đến người lính nghèo thú nhận rằng:

– “Trẫm chính là người ăn mày mỗi tối tại nhà ngươi. Từ nay trở đi, trẫm muốn ngươi là bạn và là quân sư cho trẫm”.

Dòng đời bất an.

Trong cuộc sống, thế nào cũng có lúc ta cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng giữa dòng đời. Điều đó khó có thể tránh được, nhất là những lúc ta đau khổ. “Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì’. Người ta cố gắng đi tìm ý nghĩa đích thực của kiếp người ngắn ngủi, nhưng xem ra, tiếng than thở thì nhiều, niềm vui không có bao nhiêu. “Ngày vui ngắn chẳng tày gang” (ND), thế nên, triết lý sống hiện tại là “hưởng thụ”. Hưởng thụ để bù lại những thiệt thòi mất mát vì sự hữu hạn của kiếp người, để tự tạo cho mình thứ hạnh phúc tạm bợ chóng qua thay vào hạnh phúc khát vọng mà con người không thể nào với tới được.

Nhưng càng chạy theo hưởng thụ, con người càng hụt hẫng, chới với. Tham vọng thì vô bờ, và cuối cùng, đời người là tiếc nuối.

Tìm hạnh phúc chỉ với hưởng thụ, chỉ với sở hữu vật chất, con người không thể nào có hạnh phúc. Dấu hiệu của sự vắng bóng hạnh phúc là sự bất an. Sự bất an ở trong lòng mỗi người đi đến bất an của nhân loại, bất an của thế giới.

Ai cho ta sự bình an?

Trong thế giới đã từng có những vĩ nhân góp phần thay đổi thế giới. Thay đổi bằng nhân sinh quan mới mẽ hay bằng chiến tranh chinh phục. Thay đổi bằng những phát minh khoa học, những khám phá phát triển kinh tế, những sáng kiến thành lập những tổ chức toàn cầu để cuộc sống con người được tốt đẹp hơn.

Rõ ràng, thế giới đã có nhiều thay đổi: giàu có hơn, văn minh hơn, gần gũi nhau hơn… Nhưng, thật đáng tiếc, thế giới cũng bất an hơn: vũ khí tân tiến hơn, phương tiện chiến tranh hiện đại hơn, tốc độ phát triển vũ khí giết người hàng loạt nhanh hơn, tranh chấp, phân tán, chia rẻ nhiều hơn, khủng bố, giết người… Bất an đáng sợ nhất đó là đạo đức sa đọa ngày một cao hơn: thứ bình an trong tội lỗi!

Thế nên, điều cần làm ngay, đó là con người cần thay đổi chính mình.

Thay đổi theo đường hướng nào? Theo chỉ nam nào? Theo mẫu mực nào? Con người cần có một vị Thầy dạy dỗ và dìu dắt.

Người đó chính là Ngài – Giêsu.

Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian.”(Ga.1,29).

Chỉ với một lời giới thiệu ngắn gọn, chứa đựng trọn vẹn chân lý cuộc sống và niềm hy vọng của con người.

Ở nơi Giêsu – Con Người là “Chiên Thiên Chúa” – nhân loại nhận ra bài học của Thầy chí Thánh Giêsu bài học Tình Yêu. Đấng dạy cho nhân loại Tình yêu Thiên Chúa, giá trị nhân phẩm của con người là Con Thiên Chúa, và bình an của con người là tình huynh đệ cùng là con Thiên Chúa.

Ở nơi Giêsu, nhân loại nhận biết và tin vững con người từ đâu đến, sống để làm gì, và rồi, con người sẽ đi về đâu.

Ở nơi Giêsu, con người thấu hiểu được vì sao nhân loại bất an, và hạnh phúc phù phiếm chóng qua. Con người biết mình phải làm gì để thoát khỏi tuyệt vọng.

Ở nơi Giêsu, con người mới thấy đâu là chân giá trị kiếp nhân sinh, vì con người bước đi trong ánh sáng.

Ở nơi Giêsu, con người tìm thấy tất cả những câu giải đáp cho thân phận của mình.

Và, con người vững tin nơi Giêsu, vì bài học của Giêsu không phải là bài học lý thuyết suông được viết bằng giấy mực, mà được viết bằng chính cuộc đời của Ngài. Một cuộc đời yêu thương con người, và chết cho con người. Đó là một cuộc đời Hiến Tế vì nhân loại và cho nhân loại. Ngài là Đấng Cứu Thế. Giêsu, “Đây là Chiên Thiên Chúa”.

Người đó chính là Ngài – Chúng ta bước theo Ngài. “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (Ga.1,25).

Người đó chính là Ngài – Ta an tâm phó thác. “Đức Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người, và kìa biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền. Nhưng Người vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Người và nói: “Thưa Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!”. Đức Giêsu nói: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!” Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ” (Mt.8,23-26).

Người đó chính là Ngài – Ta vững lòng cậy trông. “Khi đến Đồi Sọ, họ đóng đinh Người vào Thập Giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. (Lc.23,33-34).

Người đó chính là Ngài – Ta về đến bến bờ hy vọng. “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang với con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian đã tạo thành” (Ga.17,24).

Người đó chính là Ngài – Giêsu, Hạnh phúc đời ta. Không có ai khác, hay bất cứ điều gì khác có thể thay thế được Ngài. “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga.6,68).

Và, bên Giêsu, ta bình an thanh thản tâm hồn xiết bao!

Lạy Chúa Giêsu, Chiên Thiên Chúa!

Lòng con bình an trong Chúa.

Con tin vào Ngài. Amen.

 

31. Tâm khúc nào đang luân chuyển trong tôi

(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quan Trung)

Trong thời buổi mà nhiều người còn có tâm hồn trung nghĩa hôm nay, ngày ngày vẫn phải rên than là “vàng thau” đang quá trời “lẫn lộn” này, thì với một người có đủ điều kiện và thừa sức mạo xưng danh tánh của người khác! Mạo phạm sự nhân nghĩa của người khác! Mạo nhận những thành công của người để vơ vào làm của mình, thì cách minh định của thánh Gioan Tẩy giả trước sự xuất hiện của Chúa Giêsu khi khởi đầu sứ vụ của Người, quả thật vẫn mang tính thời sự cần thiết cho tới hôm nay: xác định đúng vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mình: “không đánh lận con đen”. Không nhập nhằng để người khác ngộ nhận. Không dùng những quỷ kế để bảo vệ uy tín của mình. Không nuôi tham vọng để triệt hạ người khác. Và cũng sẵn sàng lùi bước, chấp nhận cuộc sống ẩn dật mà không hề tiếc nuối, kể công: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Chính Người là Đấng mà tôi đã nói: có người đến sau tôi, nhưng có trước tôi, vì Người cao trọng hơn tôi. Phần tôi, tôi đã không biết Người, nhưng để Người tỏ mình ra cho dân Israel nên tôi đã đến làm phép rửa trong nước” (Ga 1, 25-31). Một gương khiêm tốn lạ lùng! Hiếm có! Không chỉ cần trong thời gian xa xưa đó, mà ngay chính trong cuộc sống hôm nay, bài học ấy lại còn rất cần, rất thiết thực hơn bao giờ hết! Tôi chợt nghĩ cho mình:

I/ Để biết khiêm tốn: phải hiểu chính mình:

Gần năm năm sống với cha sở An Long, giáo hạt Cao Lãnh, giáo phận Mỹ Tho, tôi luôn tâm đắc một điều mà với tình anh em đồng hướng, ngài đã từng tâm sự với tôi: “Trung ơi! Anh nói thiệt với em, điều đáng sợ nhất trong cuộc sống hôm nay, không chỉ cho riêng hai anh em mình, mà còn cho bất cứ ai trong bất cứ cương vị, chức vụ, tuổi tác, giới tính nào đi nữa, anh vẫn thấy không gì nguy hiểm cho bằng mình không hiểu được vị trí của mình! Không biết khả năng thật sự đang có của mình! Không ý thức được vai trò trách nhiệm bổn phận và tầm ảnh hưởng của mình trong phong cách, trong ngôn từ, trong ứng xử đối với người trên mình, người ngang mình, người dưới mình mà mình quan hệ, giao tiếp, ứng xử hàng ngày… sơ hở một chút là dễ dàng bị sụp đổ lắm em! Đành rằng ước muốn thì ai cũng muốn tốt, nhưng cá tính nếu không được nhìn lại, được rèn giũa, được tự nguyện uốn nắn thường xuyên, nhiều khi tự ái nổi lên, mình trở tay không kịp vì không lường trước tác hại của nó đâu em!”- Một kinh nghiệm xương máu mà đời tôi cũng đã không ít lần nếm trải! Giờ được một linh mục đàn anh chia sẻ, tôi càng hiểu chính tôi hơn!

II/ Để sống khiêm tốn: phải biết ứng dụng:

Rất nhiều người thích nghe kinh nghiệm của người khác, nhưng lại quá tự tin, tự tôn, tự cao, tự đại, để rồi có lúc phải ngã bật ngửa! Phải vấp ngã mang thương tích. Phải sụp hố sâu đến lút đầu lút cổ chính từ những kinh nghiệm mà mình đã từng được tâm sự, từng được nhủ khuyên, từng được ngăn ngừa! Nghe nhiều, đọc nhiều, mà không hiểu đúng, hiểu sâu, nên không biết đường ứng dụng! Rồi thêm sự kiêu căng bởi tự phụ cho là những khó khăn mà thiên hạ vướng vấp chỉ là chuyện nhỏ! Mình đủ sức đối đầu! Dư sức khắc phục! Thừa bản lĩnh vượt qua! Bởi “sóng sau cao hơn sóng trước” mà! Tại họ khoái “lớn thuyền” nên mới bị “lớn sóng” vậy thôi! Ai biểu họ “thuyền đua, bè sậy cũng đua; thấy rau muống vượt, rau dừa vượt theo” làm chi cho khổ? Mình cứ tà tà “liệu cơm gắp mắm” là khỏe re! Nhưng họ quên một điều: “lỗ nhỏ đắm thuyền”! không gì nguy hiểm bằng mình tự phụ mà mình không hay! Mình tự kiêu mà mình không biết! Mình đang tự đào lỗ chôn mình mà mình không ngờ! Sống khiêm tốn không dễ chút nào nếu chỉ biết nghe, biết nhìn, biết đọc mà không biết ứng dụng kịp thời, đúng lúc, hợp tình! Kiến thức vững phải khởi đi từ chiều sâu kinh nghiệm, từ nền tảng ban sơ, từ vấp váp khiếm khuyết, lỡ lầm của người đi trước để lại. Bản lĩnh là ở chỗ đó! Trưởng thành là ở chỗ đó! Thành công cũng là ở chỗ đó. Khiêm tốn là nét đẹp! Nhưng cũng mang lại những kết quả vượt sức ta mong chờ, hy vọng.

Thánh Gioan Tẩy giả đã giúp tôi ý thức thân phận của mình hơn: không mặc cảm! Không trục lợi! Không sang đoạt! Không oán trách! Không chà đạp! Mình sống và làm việc bằng chính nén bạc Chúa trao và phấn đấu để đạt được đồng lời Chúa muốn phát sinh tương xứng với đồng vốn ấy! Không ganh tỵ! Không cản đãng! Không chỉ trích! Không mạo danh mạo nhận mạo phạm tới bất cứ ai! Thợ làm vườn nho cho Chúa: sáng- trưa- chiều, đồng lương vẫn như nhau. Chúa không đòi tôi chạy theo chỉ tiêu để rồi “dụng mưu vận kế” để lấy của người khác làm thành quả của mình, rồi lên mặt dạy đời thiên hạ. Những người mà họ thừa khả năng dạy cho tôi những bài học nhớ đời mà tôi cứ tưởng họ dở, họ khùng, họ đui, họ điếc! Họ không hề hay biết sự háo danh, háo thắng của tôi. Bởi tôi dẽo miệng, tôn vinh, ca ngợi cấp trên và sẵn sàng “bán bụi tre, đè bụi hóp” để “diễu võ dương oai”, mắng mỏ, chụp mũ, đâm thọc cho người ngang, kẻ dưới phải bị dập vùi hầu tôi dễ tiến thân mà quên “đời không cho không ai bất cứ điều gì không xứng tầm với họ”. Giá phải trả vô lường!

Thấm thía hơn cho tôi là ở một lần khác trước đó, vị Tiền Hô đã nói: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người” (Mt 3, 13). Đến bao giờ, tôi mới đủ khiêm tốn để hiểu được chính tôi? Để sống đúng cương vị Chúa định cho tôi? Để bài ca yêu thương sẽ xóa tan mọi đảo phách bất hợp lý vẫn đang luân chuyển trong Tâm Khúc đời tôi?

 

32. Tôi xin làm chứng: Người là Con Thiên Chúa

Anh chị em thân mến,

Người Việt Nam chúng ta dễ tin lắm, nhất là nông dân mộc mạc chất phát. Mỗi khi đau bệnh, nghe ai bày thuốc này thuốc nọ, ta hay tin, hay nghe theo. Ta tin cả những ông thầy lang vườn, rất nhiều khi chẳng có kinh nghiệm y học, thuốc men chi cả… Mấy năm gần đây, ở An Điền có Ông thầy Ba Phú, cả xóm, cả làng ở đây không ai biết ông làm thầy, vậy mà ở Sài Gòn, Bến Nghé đi xe hơi cứ xuống tìm ông ấy ào ào, để xin chữa bệnh, để xin coi quẻ… Cách đây ba năm, có một Cô ở Tân Xuân, còn rất trẻ, nghe nói có bà con với Ông Chín Qưới, có bệnh thần kinh, tự dưng ứng lên làm thầy, chữa bệnh cho người ta bằng cách vô nước biển. Thực ra Cô đâu có vô nước biển, chỉ biểu người ta nằm dài đó một hồi, rồi nói, vô nước biển nghe…một lát sau nói rồi, là rồi đó. Mấy ông mấy bà trong đạo mình ở An Điền và Ba Tri, đi tới Cô này nhiều lắm….Bất nhơn, bệnh gì cũng cho vô nước biển…hết hay không…. không biết!!!!!!!… mà nhiều người về nhà rồi chết cũng ào ào…

Có một người giới thiệu cho chúng ta một vị Thầy có tài chữa bệnh thể xác, và cả bệnh linh hồn nữa: đó là thánh Gioan Tẩy giả, ông là người sẵn sàng giới thiệu và làm chứng cho chúng ta biết, để không lầm lẫn. Đó chính là chủ đề suy niệm của ngày Chúa Nhật hôm nay.

a/. Chúng ta thử đọc lại bài Tin mừng này và rút ra từng lời chứng của Gioan:

Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, (Gioan nói khi thấy Chúa Giêsu đi đến…) chính Người là Đấng tôi đã nói: có Đấng đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì Người có trước tôi.

Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Chính Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước bảo tôi: ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, Người đó sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.

Trước hết chúng ta đã thấy thánh Gioan tuyên xưng Chúa Giêsu là Chiên của Thiên Chúa , ám chỉ Đấng Cứu thế, Đấng đã được Thiên Chúa hứa trong Cựu Ước, và dân chúng đang mong đợi… Kế đến Gioan nhìn nhận tuy Chúa Giêsu đến sau, nhưng Người trổi vượt hơn, và vì Người có trước Gioan nữa. Ở đây, Gioan không hề nói thêm cho mình; ngược lại Gioan còn tự hạ mình nữa. Rồi thánh Gioan kể lại dấu chứng: Chúa Giêsu được Thánh Thần từ trời xuống và ngự trên mình; cũng chính Thánh Thần nói cho Gioan biết: Thánh thần ngự xuống trên ai, kẻ ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần…

b/. Thánh Gioan sau khi ra rao giảng và làm phép rửa bên bờ sông Giodan, không bao lâu, danh ông đã nổi như cồn. Chính vì thế, có nhiều người, nhiều phái sai người đến hỏi Gioan: Ông có phải là Đấng Cứu thế không? Tuy hỏi như vậy, họ vẫn muốn ông trả lời là phải, vì họ rất kính nể ông. Nhưng Gioan lại trả lời: không phải… làm mọi người thất vọng. Họ hỏi vặn mãi, Gioan mới trả lời: “tôi chỉ là tiếng người hô trong sa mạc: hãy dọn đường cho Chúa…” Gioan đã phủ nhận: mình không phải là Đấng Cứu thế, và cũng không đáng xách dép cho Người… theo thói đời, người ta lạm dụng danh nghĩa người khác, để lấy uy tín cho mình; ở đây Gioan không làm điều đó, và càng cảm nhận mình không xứng đáng nữa là khác. Gioan rất chân thật và cũng quá khiêm tốn…

Kế đến, như trong bài Tin mừng hôm nay thuật lại, Gioan sẵn sàng làm nhân chứng cho mọi người tin nơi Chúa Giêsu, dù phải trả giá như thế nào. Chúng ta biết, vì công chính và tôn trọng sự thật, mà Gioan đã kích tội của vua Hêrođê, là cướp vợ của anh mình, nên Gioan đã bị giết cách đau thương. Chính vì thế Gioan mới nói, tôi chỉ là tiếng hô trong sa mạc… tôi sẵn sàng làm chứng để cho anh em tin vào Chúa Giêsu, là Chiên Thiên Chúa…

c/. Gợi ý sống và chia sẻ:

Thánh Gioan Tẩy Giả dùng cả con người, cả cuộc đời của mình để làm chứng cho chúng ta, rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế. Ta có tin không? Hay ta còn đợi người nào khác? Ước gì câu hỏi này mỗi người chúng ta phải tự trả lời thành thật trước mặt Chúa…

 

33. Thấy, Biết rồi Làm Chứng – R. Veritas

Trong cuộc sống, chúng ta quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn.

Gioan cũng thế, trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, hai lần ông khẳng định: “Tôi đã không biết Người” (Ga.1,31-33). Cho đến khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan thú nhận mình vẫn chưa “biết” Ngài.

Dù Đức Giêsu là bà con họ hàng của ông (Lc.1,36), dù ông đã có một số thông tin về Ngài, và dù ông biết Ngài cao trọng hơn mình (Mt.3,14), nhưng cái biết ấy, ông vẫn chưa coi là biết thật sự.

Được Thiên Chúa mách bảo, ông kiên nhẫn đợi chờ. Làm phép rửa trong nước là cách giúp ông khám phá ra Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần. Ai được Thần Khí ngự xuống và ở lại, Người ấy là “Đấng Thiên Chúa Tuyển Chọn”. Gioan đã thấy Thần Khí ở lại trên Đức Giêsu lúc Ngài được ông làm phép rửa. Bây giờ ông mới có thể nói: ông đã biết Đức Giêsu. Ông đã “biết” sau khi ông đã “thấy”.

Nếu biết là đi vào một mầu nhiệm, thì mầu nhiệm ấy cứ vẫy gọi người ta tiến sâu hơn. Càng tiến sâu, cái biết càng được thanh luyện. Gioan đã thấy, đã biết, đã làm chứng cho Đức Giêsu. Làm chứng cho Đức Giêsu khiến ông trở nên tay trắng. Ông vui khi giới thiệu Đức Giêsu cho môn đệ của mình. Ông mừng khi thấy dân chúng tuốn đến với Ngài (Ga.3,26). Ông sung sướng khi trở nên lu mờ đi để Ngài được nổi bật lên (Ga.3,30).

Từ cái biết nhờ thấy, Gioan đã trở nên người làm chứng cho Đức Giêsu. Hành trình chứng nhân của Gioan cũng là của bạn và tôi hôm nay: “thấy, biết rồi làm chứng”.

Biết một người là chuyện khó. Biết Đức Giêsu còn khó hơn. Tôi chẳng thể nào múc cạn được con người Giêsu, Đấng đã là đích điểm giao hòa giữa trời và đất; Đấng là tạo hóa nhưng lại hòa đồng với tạo vật, và cũng là Đấng đã liên kết giữa thần linh thánh thiện và con người tội lỗi.

Để biết Đức Giêsu, ta cần thấy Ngài tỏ mình ra. Nhưng không phải ta sẽ thấy một thị kiến huy hoàng long trọng. Không hẳn Ngài sẽ xuất hiện trong sức mạnh quyền năng. Ngài vẫn tỏ mình xuyên qua những việc xảy ra trong cuộc sống hằng ngày, qua những con người đơn sơ ta vẫn gặp. Ta cần tập nhìn thấy Ngài tiềm ẩn sau lớp vỏ bọc xù xì của thực tế đời thường.

Cần thường xuyên làm mới lại “cái biết” về Đức Giêsu để mối tương quan của ta với Ngài mỗi ngày trở nên thâm trầm hơn, thân mật hơn. Nếu biết là thấy, là có kinh nghiệm riêng tư, là hiệp thông, là gặp gỡ, là chia sẻ chính cuộc đời của Ngài, là để “ta sống trong Ngài và Ngài sống trong ta”, thì cái biết đó phải là nỗ lực của cả một đời người Kitô.

Và lúc này đây, mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy dành ra đôi ba phút ngắn ngủi để đi vào lòng mình; để tìm gặp khuôn mặt Giêsu: Ngài đang ở đâu, ở chỗ nào trong cuộc sống của tôi? Tôi phải làm gì để nhận ra Ngài, bắt gặp Ngài đang sống bên tôi trong cuộc đời tạm bợ này?

Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian.”(Ga.1,29). Còn bạn và tôi, chúng ta sẽ giới thiệu Đức Giêsu như thế nào cho những người xung quanh ta hôm nay?

***

Lạy Chúa Giêsu!

Xin cho con thấy Chúa thật lớn lao, để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ vô nghĩa.

Xin cho con cảm nhận tình Chúa thật bao la sâu thẳm, để con luôn được sống trong tình yêu thương sâu thẳm bao la ấy.

Xin cho con biết Chúa thật nhân từ và bao dung, để mỗi khi con vấp ngã trên đường đời, con luôn biết chỗi dậy và trở về cùng Chúa.

Giêsu ơi! Xin Ngài hãy đến và cư ngụ trong lòng con luôn mãi, để không còn là con nữa, mà là chính Ngài đang sống trong con. Amen

home Mục lục Lưu trữ