Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 93

Tổng truy cập: 1439285

Đức Giêsu Chữa Người Bị Phong Hủi

Đức Giêsu chữa người bị phong hủi

 

Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện, DCCT

 

Thiên
Chúa không phải là Thiên Chúa của sự kỳ thị hay phân biệt thanh sạch –
nhơ uế, một trong những sự phân biệt và kỳ thị đặc trưng của Do Thái
giáo.



 

Bài Tin Mừng của Chúa Nhật trước kết thúc với câu tóm tắt hoạt động của Đức Giêsu: “Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ
(Mc 1,39). Ngay sau lời tường thuật đó là câu truyện ngắn gọn nhưng lại
rất phong phú về ý nghĩa,  mà phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta suy
niệm: Đức Giêsu chữa một người bị phong hủi (1,40-45).

 

Câu truyện bắt đầu bằng một chi tiết đáng chú ý: “Có người bị phong hủi đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch" (c.40).
Người bị phong hủi tự tìm đến với Đức Giêsu: lần đầu tiên trong Mc, một
người bệnh tự thực hiện sáng kiến riêng của anh ta.

 

Người bị phong hủi, theo quan điểm Do
Thái giáo, là một kẻ ô uế. Anh ta bị loại khỏi cộng đồng thờ phượng
Thiên Chúa xét về phương diện tôn giáo, và do đó, bị loại khỏi dân được
tuyển chọn (Lv 13,45-46). Đồng thời, anh ta cũng bị coi là một nguồn gây
nhiễm uế cho người và vật. Vì thế, anh ta phải sống cách ly khỏi cộng
đồng xã hội, trong một nơi chốn riêng biệt, và phải hô to lên để báo
động mỗi khi có người khác đến gần để họ biết mà tránh xa. Anh ta, trong
thực tế, bị loại trừ khỏi xã hội con người. Và hầu như không có cơ may
hội nhập lại. Người Do Thái coi bệnh phong hủi là “trưởng nữ của sự
chết” (G 18,13), và nhiều rabbi nghĩ rằng chữa khỏi bệnh này cũng khó
như làm cho kẻ chết sống lại vậy. Theo một nghĩa, người phong hủi bị coi
là kẻ bị chúc dữ, là kẻ bị Thiên Chúa trừng phạt.

 

Đức Giêsu đang “đi khắp miền Galilê”
(c.39). Chắc chắn Ngài đã thấy rất nhiều những trường hợp người ta bị
gạt ra bên lề cộng đồng tôn giáo và xã hội Do Thái. Và bây giờ, khi một
người phong hủi chủ động tìm đến với Ngài, thì chính là lúc Ngài bày tỏ
lập trường đối với vấn đề đau thương này. Và Ngài đã thẳng thắn xóa bỏ
những nền tảng thần học Do Thái giáo của hiện tượng, đồng thời bắt đầu
chấp nhận những hệ lụy do chọn lựa của Ngài gây ra.

 

Từ trước đến giờ, Ngài “rao giảng trong
các hội đường” (c.39), tức là tiếp xúc với những con người chưa bị loại
trừ khỏi cộng đồng tôn giáo và xã hội Do Thái. Bây giờ, Ngài đón tiếp
một người đã bị cái đạo lý chính thống của Do Thái giáo gạt ra bên ngoài
vì bị coi là ô uế. Cố ý không nêu tên người này, cũng không ghi rõ nơi
chốn hiện diện của anh ta, có lẽ tác giả Tin Mừng muốn khắc họa anh ta
như là một điển hình của mọi người bị gạt ra bên lề đó.

 

Tại sao anh ta lại tìm đến để gặp Đức
Giêsu? Có lẽ vì những hoạt động và nhất là những lời rao giảng của Ngài
khắp miền Galilê đã khơi lên trong tâm hồn những con người như anh một
niềm hy vọng. Tuy bị cấm tiếp xúc với những con người bình thường, nhưng
bất chấp các hình phạt mà Luật có thể giáng xuống trên mình, anh vẫn
tìm đến với Đức Giêsu: cái khao khát thoát khỏi nỗi bất hạnh kinh khủng
và khỏi tình cảnh bị loại trừ đau thương đã chiến thắng nỗi sợ hãi. Và
khi đã đến gần Ngài, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch" (c.40).

 

Anh không xin Đức Giêsu chạm đến anh.
Anh cũng không trực tiếp xin Ngài làm cho anh được sạch. Anh chỉ van xin
Ngài, với một thái độ hết sức khiêm nhường, rằng “nếu Ngài muốn”. Anh
hoàn toàn tin tưởng nơi quyền năng của Ngài. Ngài đã từng công bố rằng
“Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1,14), nên anh tin tưởng rằng Ngài có đủ
quyền năng xóa bỏ cho anh cái chướng ngại vật đang ngăn cản anh đi vào
Nước đó. Tuy nhiên, anh vẫn chưa dám chắc rằng Ngài muốn làm điều đó lúc
này, vì anh chưa biết chương trình và hành động của Ngài sẽ là thế nào.
Anh thưa “nếu Ngài muốn” là để bày tỏ lòng kính trọng sự tự do và
chương trình hành động của Ngài.

 

Đứng trước tình cảnh như vậy, “Đức
Giêsu chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch
đi!" Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch”
(cc.41-42). Trong Tân Ước, hạn từ “chạnh lòng thương” (splagkhnistheis)
chỉ được dùng cho Đức Giêsu (Mt 9,36; 14,14; 15,32; 20,34; Mc 1,41;
6,34; 8,2; 9,22; Lc 7,13) và cho Chúa Cha trong các dụ ngôn nói về Người
(Mt 18,27; Lc 15,20). Đương thời, động từ “chạnh lòng thương” được dùng
trong văn chương để chỉ tình yêu nhân lành của Thiên Chúa dành cho con
người. Khi kể rằng Đức Giêsu chạnh lòng thương mà giơ tay đụng vào người
phong hủi, tác giả Tin Mừng muốn nói rằng chính tình yêu nhân lành đó
của Thiên Chúa là thực tại đang hướng dẫn ý muốn và hành động của Đức
Giêsu. Đó là tình yêu của Thiên Chúa, Đấng không thể cầm lòng trước tình
cảnh khốn khổ của con người. Trái lại, Người “giơ tay đụng vào anh”.

 

Thiên Chúa đã từng “giơ tay” để giựt
thoát những kẻ bị áp bức và bị loại trừ khỏi tình cảnh bi đát ở Ai Cập
(x. Xh 3,20; 6,8; 8,1; 9,22; 10,12; 14,16.21...). Nay trong thẩm quyền
của Thiên Chúa chạnh lòng thương, Đức Giêsu cũng “giơ tay” để thực hiện
những hành động giải thoát. Hơn nữa, Ngài giơ tay là để đụng chạm đến
người phong hủi bằng một sự đụng chạm thể lý, điều mà Luật đã cấm hòng
nhấn mạnh sự gạt người ta ra bên lề cộng đồng tôn giáo và xã hội (Lv
5,3; Ds 5,2). Và Ngài bảo anh ta: “Tôi muốn, anh sạch đi!"  Như
thế, Đức Giêsu đã chứng tỏ một cách cụ thể rằng Thiên Chúa không hề khử
trừ người phong hủi khỏi tình yêu của Người. Nói cách khác, Đức Giêsu
đã phá nát cái nền tảng thần học của sự kỳ thị và gạt bỏ người phong hủi
ra bên lề. Ngài giựt những người bị loại trừ khỏi tình cảnh bi đát và
bị áp bức mà họ đang phải chịu.

 

Người phong hủi đã vi phạm Luật khi anh
ta đến gặp Đức Giêsu. Phần mình, đã không kết án anh ta vì điều đó, Đức
Giêsu lại còn vi phạm Luật cách trầm trọng hơn, khi Ngài giơ tay đụng
vào anh ta. Nhưng chính bằng hành động đó, Ngài cho thấy rằng Luật, một
khi đặt ra sự loại trừ, đã không diễn tả thực tại cũng như ý muốn của
Thiên Chúa. Hóa ra, cái chướng ngại vật khiến cho người phong hủi không
còn được cảm nghiệm tình yêu nhân lành của Thiên Chúa lại chính là Luật,
vì Luật đã khắc họa hình ảnh của một Thiên Chúa khó tính khó nết, đòi
hỏi, nghiêm khắc và ưa trừng phạt. Hành động của Đức Giêsu cho thấy rõ
ràng rằng đối với Thiên Chúa, sự phân biệt cái thanh sạch – cái ô uế mà
Luật đề cao, là không có giá trị nữa. Luật không biết đến lòng thương
xót trước tình cảnh đau thương của con người, nhưng hơn nữa, còn loại
trừ những con người lâm cảnh đau thương đó; Đức Giêsu chạnh lòng thương
khi đối diện với tình cảnh của họ, Ngài đón nhận họ và đặt họ lên trên
Luật.

 

“Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch”.
Ý muốn của Đức Giêsu đã thành tựu. Theo Luật, Ngài đã bị trở thành ô uế
ngay khi vừa chạm vào người bị phong hủi. Nhưng sự việc đã xảy ra hoàn
toàn ngược lại: người phong hủi lập tức được thanh sạch nhờ lời và nhờ
sự đụng chạm của Đức Giêsu.

 

Thiên Chúa đón nhận con người không phải
vì anh ta thanh sạch. Trái lại, bởi vì Thiên Chúa đón nhận anh ta cho
nên anh ta mới được thanh sạch. Vì thế, chính lúc người phong hủi được
trải nghiệm rằng Thiên Chúa chấp nhận anh như anh là, thì chứng phong
hủi biến mất khỏi anh. Hóa ra, sự gạt bỏ người phong hủi ra bên lề cộng
đồng là chuyện của các thiết chế tôn giáo và xã hội, chứ không phải là
điều do Thiên Chúa muốn, nhưng lại bị gán cho Thiên Chúa!

 

Nhờ Đức Giêsu, bây giờ người phong hủi biết mình được Thiên Chúa đón nhận. “Nhưng
Người làm gắt mà xua anh đi ngay, và bảo anh: "Coi chừng, đừng nói gì
với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch,
thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ"
(cc.43-44).

 

Tác giả Tin Mừng viết: “Người xua anh đi
ngay”. Nhưng xua đi khỏi đâu? Ông đã không hề cung cấp một chỉ dẫn nào
về nơi chốn xảy ra sự kiện Đức Giêsu làm cho anh ta được sạch. Chi tiết
chỉ nơi chốn gần nhất ở phía trước chính là “trong các hội đường của họ”
(c.39), tức là trong thiết chế tôn giáo của họ. Điều này cho phép chúng
ta giải thích: “làm gắt mà xua đi ngay khỏi đó” tức là làm gắt mà bắt
anh bỏ đi cái xác tín sai lầm rằng hội đường, cái thiết chế tôn giáo
định ra sự loại trừ, đã làm đúng khi gạt anh ta ra bên lề. Tác giả không
nói đến một hội đường cụ thể và xác định nào, nhưng ông muốn nói đến
hội đường ở đây như là một thiết chế tôn giáo Do Thái, và người phong
hủi ở đây, như chúng ta đã từng nói trên kia, là hình ảnh của tất cả
những con người bị gạt sang bên lề, những con người đang phải ở dưới
quyền áp chế của cái hệ thống thiết chế tôn giáo kia. Sự kiện Đức Giêsu
phải làm gắt cho thấy người vừa được sạch khỏi phong hủi này chưa đi đến
chỗ nhận thấy rằng thiết chế tôn giáo kia đã không đúng khi loại trừ
anh như thế. Và vì thế, anh ta sẽ lại có nguy cơ bị loại trừ lần nữa nếu
chấp nhận ở lại trong cái thiết chế đó. Cần phải thoát khỏi cái hệ
thống tôn giáo bất công đó.

 

Để xua anh ta đi ngay, Đức Giêsu bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả”.
Cần phải thinh lặng, đừng vội nói, để nhận thức sâu xa sự khác biệt
hoàn toàn giữa cách hành xử của Thiên Chúa và cách hành xử của cái thiết
chế tôn giáo Do Thái kia. Và khi đã nhận ra sự khác biệt đó, anh ta sẽ
hiểu: cái thiết chế tôn giáo kia đã không thực sự nói nhân danh Thiên
Chúa; và anh ta cần phải vĩnh viễn rời xa nó để có thể tiếp tục được
Thiên Chúa đón nhận cách nhưng không, như anh đã từng được trải nghiệm
nơi Đức Giêsu.

 

Sau lệnh truyền thinh lặng là một lệnh
truyền khác mà người ta cần phải chú ý nhiều để có thể hiểu đúng ý nghĩa
của nó. Đức Giêsu nói tiếp với người vừa được sạch khỏi phong hủi: “Hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ”.

 

Chi tiết đầu tiên cần chú ý: Đức Giêsu
nói đến “những gì ông Môsê đã truyền”. Kinh Thánh gán những lệnh truyền
liên quan đến người bị phong hủi cho chính Thiên Chúa (x. Lv 14,1-32:
“Đức Chúa phán với Môsê rằng...”), và như thế, vẽ nên hình ảnh một Thiên
Chúa đòi hỏi, khó tính, cáu kỉnh. Đức Giêsu không chấp nhận sự gán ghép
đó khi Ngài cố ý nhấn mạnh rằng những lệnh truyền đó là của ông Môsê
(chứ không phải của Thiên Chúa). Đối với Đức Giêsu, tất cả luật lệ liên
quan đến sự thanh sạch và đến sự ô uế đều là những lệnh truyền của phàm
nhân chứ không phải của Thiên Chúa. Thiên Chúa không làm ra sự loại trừ
và gạt bỏ con người. Có lần Đức Giêsu còn khẳng định rằng khi làm ra
những lệnh truyền, ông Môsê đã từng không theo ý muốn của Thiên Chúa
nhưng nhượng bộ sự cứng lòng của người ta (x. 10,5).

 

Chi tiết thứ hai cần hiểu đúng: cách nói “để làm chứng trước mặt họ”. Bản văn Hy Lạp viết: “eis martyrion autois”. Cách diễn đạt này xuất hiện ba lần trong Mc (1,44; 6,11; 13,9). (Hạn từ martyrion không có nghĩa là “lời chứng”  như martyria, x. 14,55.56.59). Trong hai trường hợp kia (6,11 và 13,9), giới từ eis có nghĩa chỉ sự đối nghịch: eis martyrion autois = làm chứng chống lại họ / làm chứng cáo tội họ.
Ngoài ra, dâng lễ vật ở đây không phải để làm chứng chống lại vị tư tế
(số ít) mà là “họ” (số nhiều, chỉ các tư tế). Vấn đề sẽ được giải quyết
nếu công nhận rằng ở đây có sự ám chỉ Đnl 31,26, tức là bản văn nói về
một chứng cáo tội dân cứng đầu và bất trung với Thiên Chúa.

 

Từ đó, có thể hiểu: Đức Giêsu không bảo
người vừa được sạch khỏi phong hủi đi tìm sự xác nhận của vị tư tế về
tình trạng thanh sạch của anh ta theo quy định của Luật. Chính Đức Giêsu
vừa cố ý vi phạm lệnh truyền của Luật liên quan đến cách hành xử đối
với người bị phong hủi, khi Ngài giơ tay đụng chạm đến người đó (Ngài đã
hoàn toàn có thể làm cho anh ta được sạch mà không cần chạm đến anh để
trở thành một người vi phạm Luật), tức là chính Ngài đã không chấp nhận
coi những lệnh truyền đó là có giá trị. Vì thế Ngài không thể bảo anh ta
tôn trọng những lệnh truyền mà chính Ngài vừa vi phạm. Ngài không thể
mâu thuẫn mà hành xử một cách đáng trách như vậy được. Nếu muốn tỏ ra
tôn trọng những lệnh truyền của Luật liên quan đến vụ việc, thì chính
Ngài trước hết phải đi dâng lễ xá tội, vì Ngài đã bị nhiễm uế theo Luật.

 

Đàng khác, lời dặn giữ bí mật mà chính
Đức Giêsu vừa đưa ra cho người mới được chữa khỏi phong hủi, cho thấy
Ngài chẳng yêu cầu anh ta chứng tỏ sự tôn trọng của anh đối với Luật.
Chưa kể rằng sự tôn trọng đối với những lệnh truyền của Luật liên quan
đến những người bị phong hủi, sẽ đồng thời là sự công nhận tính chính
đáng của sự loại trừ nhau vì lý do ô uế theo quy định nghi lễ, và như
vậy cũng là sự xác nhận tình trạng đáng bị loại trừ của những người khác
nếu họ bị phong hủi. Sẽ chẳng có bất cứ sự giải thoát nào ở đây cả!
Chính người vừa được sạch cũng sẽ có thể lại bị thiết chế Do Thái loại
trừ cách bất công nhiều lần nữa! Và chính anh ta, một khi chấp nhận các
lệnh truyền liên quan đến cách hành xử đối với người bị phong hủi, sẽ có
thể trở thành kẻ kỳ thị và loại trừ những người khác!

 

Vì thế, sẽ là hợp lý hơn rất nhiều nếu chúng ta hiểu lễ dâng mà Đức Giêsu bảo người vừa được sạch phong hủi thực hiện, là chứng cáo tội thiết chế tôn giáo Do Thái, chứ không phải là lễ dâng tìm sự chứng thực của thiết chế đó về tình trạng được giải thoát của anh ta.

 

 Tác giả Tin Mừng không kể anh ta đã thực hiện yêu cầu của Đức Giêsu như thế nào. Chỉ biết rằng: “Vừa ra, anh ta lên tiếng cao rao và phao đồn việc đó” (c.45a). Liên
kết ngữ đoạn “vừa ra” với ngữ đoạn “xua anh đi khỏi” ở c.43, chúng ta
có thể hiều rằng anh ta đã đi đến cái xác tín mà Đức Giêsu muốn anh ta
đạt tới. Đó là sự nhận ra rằng thiết chế tôn giáo Do Thái và Luật của nó
đã trình bày sai về Thiên Chúa, rằng sự bị loại trừ mà anh ta đã phải
chịu là một điều sai trái về mặt tôn giáo và bất công về mặt xã hội,
rằng anh ta cần phải thoát khỏi sự chi phối của cái thiết chế tôn giáo
không đúng đắn đó...

 

Anh ta đã từng tưởng rằng mình bị loại
trừ khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Bây giờ anh được trải nghiệm chính
tình yêu đó và được hưởng sự tự do đích thực. Điều đó khiến anh hết sức
vui mừng, sự vui mừng của người được yêu thương và được giải thoát. Vì
thế, thật dễ hiểu việc “anh ta lên tiếng cao rao và phao đồn việc đó” (c.45).

 

Sứ điệp mà người vừa được sạch phong hủi công bố, đã dẫn đến một kết quả là chính Đức Giêsu bị gạt ra bên lề. “Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành”.
Những người nhiệt thành giữ Luật chắc chắn không thể chịu được con
người đã dám khẳng định rằng Thiên Chúa chấp nhận những kẻ mà tôn giáo
Do Thái loại trừ một cách đương nhiên và tự động. Đối với họ, Đức Giêsu
là kẻ không công nhận cái giá trị của sự thanh sạch và cái phản giá trị
của sự ô uế. Ngài lại đã đụng chạm đến một người phong hủi, nên đã trở
thành một người ô uế. Ngài phải bị gạt ra khỏi cộng đồng tôn giáo và xã
hội. Vì thế, Ngài không thể công khai vào thành nào được, nhưng phải ở
nơi hoang vắng ngoài thành, như một kẻ bị loại trừ.

 

Kết quả thứ hai là: dân chúng từ khắp
nơi kéo đến với Đức Giêsu, đương nhiên là ở nơi hoang vắng ngoại thành
ấy. Tác giả Mc không nói là những người phong hủi từ khắp nơi kéo đến.
Điều này cho thấy sự phong hủi thể lý của người phong hủi không phải là
điểm trung tâm của trình thuật, nhưng là sự tin tưởng gắn bó với Đức
Giêsu mới là yếu tố cần phải nhấn mạnh nhiều hơn vậy.

 

Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh
với chúng ta một đạo lý quan trọng: Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa
của sự kỳ thị hay phân biệt thanh sạch – nhơ uế, một trong những sự phân
biệt và kỳ thị đặc trưng của Do Thái giáo. Đức Giêsu phá bỏ quan niệm
sai lạc đó về Thiên Chúa. Và Người đã phải trả giá cho điều đó.

 

Biết đâu Người cũng có thể đang phải làm
như thế đối với những hệ thống của chúng ta hôm nay?! Trong một mức độ,
những sự phân biệt là có thể chấp nhận và có thể chính đáng. Nhưng loại
trừ và kỳ thị dựa trên những sự phân biệt ấy thì lại là chuyện khác. Và
đáng phàn nàn nhất là khi chúng ta gán những sự kỳ thị ấy cho Thiên
Chúa như là tác giả... Điều đó chắc chắn sẽ làm méo mó dung mạo yêu
thương của Người.

 

Bài Tin Mừng hôm nay buộc chúng ta phải
nhìn lại cách hành xử của mình và của các thiết chế mà mình đang sống
trong đó... Biết đâu chính chúng ta cũng đang làm cho dung mạo của Thiên
Chúa nên méo mó?!

home Mục lục Lưu trữ