Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 33
Tổng truy cập: 1435059
CHÚA GIÊSU LÀ CỬA ĐÀN CHIÊN
CHÚA GIÊSU LÀ CỬA ĐÀN CHIÊN
"Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào”. (Ga 10, 9-10)
* * *
Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên
Cửa đóng lại để bảo vệ chở che
Ban đêm hầu như tất cả mọi nhà đều đóng cửa lại. Nhà có cửa đóng then cài chắc chắn thì chủ nhà ngủ mới yên giấc và tài sản trong nhà mới được bảo vệ. Vì thế, khi xây nhà, việc đầu tiên là lắp đặt cửa ngõ thật vững chắc rồi khoá lại kỹ lưỡng để người nhà được yên giấc về đêm và của cải được an toàn.
Nhưng tìm đâu trên đời nầy một thứ cửa đủ vững chắc và kiên cố có thể bảo vệ tâm hồn con người được bình an và giúp cho linh hồn họ được an toàn trước những đợt tấn công ác liệt của ác thần? Cửa nào có thể bảo vệ tâm linh con người khỏi bị công phá bởi vô vàn hung thủ của thế gian?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Ngài là thứ Cửa như thế. Ngài nói: "Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu", tức là được bảo vệ. Ngài là cửa đóng lại để bảo vệ đoàn chiên trong chuồng được an toàn, không bị trộm cướp và ác thú giết hại.
Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại lại có nhiều cạm bẫy của ác thần, nhiều nọc độc của văn hoá sự chết, nhiều cám dỗ tệ hại lôi kéo nhân loại vào vòng sa đoạ như trong thế kỷ hôm nay.
Vô vàn sách báo xấu xa, phim ảnh đồi trụy, tư tưởng độc hại, lối sống thác loạn; được quảng bá khắp nơi trên thế giới, được tung lên mạng lưới điện toán toàn cầu làm sai lệch méo mó lương tâm con người, khiến họ xem tội ác là chuyện bình thường, xem việc phá thai, mẹ giết con là điều chính đáng, xem hôn nhân đồng tính là lẽ tự nhiên, xem việc huỷ hoại đời sống chung thuỷ của vợ chồng là điều đơn giản và cần thiết...
Trước những nguy cơ khủng khiếp như thế đang đe doạ nhân loại trên khắp thế giới, chỉ có một lá chắn vững chắc, một cánh cửa an toàn, một thành trì kiên vững là Chúa Giêsu Chúa. Giáo huấn của Ngài là tấm Cửa che chắn đoàn chiên được an toàn không kẻ thù nào xâm hại được, nếu chiên của Ngài biết đón nhận giáo huấn của Ngài.
* * *
Cửa mở ra để dẫn đưa vào đồng cỏ thiêng liêng
Không chỉ đóng lại để bảo vệ chở che, Cửa Giêsu còn mở ra để mở lối cho nhân loại tiến vào đồng cỏ thiêng liêng.
Các vị đại thánh trong Giáo Hội như Phanxicô Át-xi-di, Phanxicô Xaviê, Têrêxa Hài Đồng Giêsu của những thế kỷ trước hay những nhân vật tầm cỡ như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Mẹ Têrêxa Calcutta thời nay, nhờ được dẫn vào nuôi ăn trong cánh đồng cỏ thiêng liêng nầy nên đã được trở thành những vĩ nhân của nhân loại và những thánh nhân sáng ngời trong Hội Thánh.
Nhân loại hôm nay như đàn chiên đói khát, đói khát lương thực tinh thần cách khẩn thiết, nhưng tiếc thay, còn lắm người chưa chấp nhận bước qua Cánh Cửa Giêsu để được dẫn vào đồng cỏ tốt tươi.
* * *
Lạy Chúa Giêsu,
Nhờ Chúa là Cửa đóng lại che chắn nên chúng con được bảo vệ khỏi sự xâm nhập và tàn phá của ác thần;
Nhờ Chúa là Cửa mở ra đồng cỏ xanh, chúng con được nuôi dưỡng sung mãn trong vô vàn ân phúc của Chúa.
Xin cho nhân loại hôm nay biết nhìn nhận Chúa là Cửa, là Thành Trì chở che bảo vệ tâm linh nhân loại và xin cho mọi người nương vào Chúa như Cửa rộng mở vào đồng cỏ thiêng liêng cho muôn người được lớn lên thành người có đạo đức và phẩm chất cao đẹp.
34.Có một tương quan thật lạ lùng
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khi giới thiệu một nhân vật quan trọng cho công chúng thì người ta sẽ nêu lên tước vị, vai trò hay học vị cao nhất của người đó để cho mọi người nể trọng, chẳng hạn: Đây là ngài tổng thống… Đây là giáo sư tiến sĩ… Đây là khoa học gia nổi tiếng…
Thế mà qua đoạn Tin mừng được trích đọc hôm nay, Chúa Giêsu tự giới thiệu Ngài bằng một danh hiệu thật lạ kỳ và đáng kinh ngạc. Ngài nói: “Tôi là cửa chuồng chiên!” (Ga 10,7).
Vì sao Chúa Giêsu lại tự giới thiệu mình với một vai trò quá đỗi tầm thường như thế?
Xưa kia, tại Do-thái, để canh giữ đoàn chiên ban đêm, người chăn chọn một bãi đất trống ngoài đồng rồi rào dậu chung quanh, chỉ chừa một lối hẹp cho chiên ra vào mà không có cửa. Ban đêm, sau khi đã lùa chiên vào ràn, người chăn nằm ngay lối ra vào chật hẹp đó thay cho cánh cửa. Thế là chiên bên trong không thể ra bên ngoài được vì đã có người chăn chặn lối, kẻ trộm bên ngoài cũng không vào trong ràn bắt chiên được vì người chăn đã chắn lối đi. Như thế, người chăn trở thành một “cánh cửa sống” bảo vệ an toàn cho đoàn chiên.
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự xưng mình là “cửa chuồng chiên” như thế đó.
Thân thế của Chúa Giêsu
Chúa Giêsu, Đấng xưng mình là người chăn chiên, là cửa chuồng chiên… lại có thân thế rất diệu kỳ.
Ngài chính là Ngôi Lời, tức là Thiên Chúa ngôi hai, đã hiện hữu từ lúc vũ trụ chưa được tác thành, như Tin mừng Gioan cho biết: “Từ khởi đầu đã có Ngôi Lời… Ngôi Lời là Thiên Chúa.”
Ngài cũng chính là Đấng tạo dựng nên vũ trụ càn khôn: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1, 1-3).
Thế mà, vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).
Ngài cư ngụ giữa chúng ta để làm gì?
- Để chia vui với người vui như Ngài đã tham dự tiệc cưới tại Ca-na và làm phép lạ đầu tay cho nước hóa nên nhiều rượu ngon cho mọi người vui hưởng;
- Để khóc với người khóc như Ngài đã khóc thương trước mồ La-da-rô khi thấy cô Maria nức nở khóc thương em mình đã chết;
- Để cảm thông với vô vàn đau đớn, khốn khổ của nhân loại, của những người bệnh hoạn tật nguyền… Vì thế, Ngài đã làm cho người mù được thấy, người què được đi, người câm được nói, người phong hủi được lành sạch…
Thế là Ngài đã tạo nên một tương quan rất đặc biệt, rất độc đáo với con người.
Tương quan đó thế nào?
- Ngài là Đấng Tạo hóa, đã dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ bao la vô biên vô tận, so với Ngài, con người chẳng là gì cả. Vậy mà Ngài vẫn trân trọng chúng ta, yêu quý chúng ta, quan tâm chăm sóc từng người chúng ta.
- Ngài là Chúa tể trời đất, là vua hoàn vũ cao sang phép tắc, quyền năng vô lượng, còn chúng ta chỉ là thần dân nhỏ bé; nhưng Ngài vẫn quý mến chúng ta, không xem chúng ta như người dân đen vô danh tiểu tốt.
Vậy thì tương quan giữa Ngài với chúng ta như thế nào?
Thưa, đó là tương quan bạn bè! Ngài trở nên bạn hữu của chúng ta, Ngài thân ái gọi chúng ta là bạn, như lời Ngài nói: “Thầy không gọi các con là tôi tớ… nhưng Thầy gọi các con là bạn hữu…” (Ga 15,15).
Và qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác lập thêm một tương quan mới giữa Ngài với chúng ta, đó là tương quan giữa người chăn và đoàn chiên. Như người chăn chiên tốt, Ngài thấu hiểu từng con chiên một, gọi đích danh từng con trong đoàn, Ngài đi trước dẫn chiên theo sau và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đoàn chiên.
Và đặc biệt hơn nữa, Ngài tự ví mình như cánh cửa chuồng chiên.
- Cánh cửa này đóng lại vào ban đêm để bảo vệ chiên khỏi tay trộm cướp, khỏi nanh vuốt của thú rừng;
- Cánh cửa này mở ra vào ban ngày để đưa chiên đến đồng cỏ xanh, đến nguồn suối mát… vì mục đích Ngài đến trần gian là “để cho chiên Ngài được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa hạ mình xuống thật thấp để nâng chúng con lên thật cao; Chúa chấp nhận làm người để nâng loài người lên hàng con Thiên Chúa; Chúa tự xóa mình đi, gác bỏ vinh quang, quyền lực qua một bên để hóa thân làm người phàm yếu đuối, để đồng cam cộng khổ với chúng con, để nên bạn bè thân thiết, chia vui sẻ buồn với chúng con và thậm chí còn trở thành cánh cửa chuồng chiên để che chắn, bảo vệ chúng con là đoàn chiên của Chúa.
Xin cho chúng con hiểu cho thấu tình thương sâu đậm Chúa dành cho chúng con và sống sao cho xứng với tình yêu đó.
35.Nhân loại chỉ có một Đức Kitô – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Nền văn minh cơ giới khiến chúng ta quen thấy các bãi đậu xe hơn là các chuồng chiên. Để hiểu rõ bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cần gợi lại trong trí tưởng tượng một trong những quang cảnh đời sống thôn dã quen thuộc vào thời Đức Kitô. Những người chăn chiên chiều đến lùa đàn súc vật của mình vào một ràng để cho một người trong bọn trông coi, canh giữ cửa ra vào suốt đêm. Kẻ toan tính vào trong ràng để giết trộm buộc phải trèo qua rào. Chiên thuộc các bầy khác nhau biết tiếng người chăn mình. Sáng đến, người ấy tới trước cửa, người canh mở cửa cho ông ta. Nghe tiếng gọi mà chúng nhận ra không lầm lẫn. Chiên mỗi bầy tụ lại chung quanh người chăn của mình rồi ra đi đến đồng cỏ. Chúa Giêsu tự ví mình như người chăn chiên và đoàn lũ đông đảo của gia đình nhân loại Ngài ví như đoàn chiên. Ngài biết toàn thể loài người, cũng như từng người riêng biệt. Đối với nhân loại đã không có ai và sẽ không có ai được như Ngài. Ngài không những là người chăn chiên mà còn là cửa ràn chiên. Người ta chỉ hiểu biết thâm sâu cộng đoàn nhân loại bằng cách nhờ vào sự thông hiểu của Đức Kitô. Có nhiều đường lối khác, nhưng ít hay nhiều đó là những đường đột nhập. Những lời mời gọi con người mà không có cung giọng, tiếng nói của Đức Kitô dẫn đưa họ đến những mục đích không có được sự toàn vẹn, như ơn cứu độ Đấng Kitô Cứu Chúa duy nhất mang lại.
1) Các chiên của Ngài, Ngài gọi từng con một.
Điều này có nghĩa là Chúa biết mỗi người riêng biệt. Ngài biết được vì Ngài là Thiên Chúa. Đó chẳng phải là một sự kiện khiến lòng ta phấn khởi sao? Chúng ta sống trong một xã hội giảm trừ dần dần con người vào chỗ vô danh của một lá phiếu điện toán. Vì hiện nay giá trị độc nhất của nhân vị càng tiêu tán dần, nên người ta phản ứng lại bằng việc học hỏi cách khoa học vấn đề các tương giao liên vị. Làm như thế, người ta lại phá huỷ thêm tính chất liên lạc hợp nhất của nhân vị. Còn lại được gì? Đối với người Kitô hữu còn lại việc Thiên Chúa biết đến mình, biết đến chỗ thâm sâu độc nhất và không thể thông truyền của mình. Khi trong đám đông có lúc chúng ta cảm thấy hết sức trơ trọi cô độc, hãy nhớ đến một Đấng thông hiểu chúng ta tường tận riêng biệt. Hãy nhớ đến một giọng nói hoà hợp với khả năng đón nghe bên trong chúng ta.
2) Ta đến để chúng được sống
Sự sống Đức Kitô mang lại cho chúng ta là điều mà người ta gọi là ơn thánh hoá, một sự thông phần vào chính cuộc sống của Thiên Chúa. Tại thế này chúng ta đang sống những chặng khởi đầu, chờ đợi hồi triển nở đầy đủ khi chúng ta được hoàn toàn thông hiệp vào sự phục sinh của Chúa. Ngay tự bây giờ trí khôn, ước muốn, tâm hồn chúng ta đã được hưởng nhờ hồng ân Thiên Chúa. Khả năng hiểu biết sự thật, ước muốn điều thiện được tăng cường đến một mức vượt quá sức tự nhiên. Không bao giờ một mình trí khôn chúng ta biết được mầu nhiệm Ba Ngôi chí thánh. Không bao giờ tâm hồn chúng ta tự mình khám phá được niềm hy vọng lớn lao. Chính Đức Giêsu Kitô mang sự sống của con cái Thiên Chúa đến cho chúng ta. Đó chẳng phải là sự sống đầy tràn quý nhất hay sao?
36.Chúa Chiên Lành
(Suy niệm của Lm. Phaolô Nguyễn Văn Châu)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người mục tử và đoàn chiên. Hình ảnh này đối với người Việt nam chúng ta thì không quen thuộc lắm vì dân tộc chúng ta sống chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp cây lúa, gắn bó với con trâu con bò: “Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.”
Nhưng đối với những dân tộc du mục ở xứ Palestina thì rất quen thuộc và dễ hiểu. Dân Israel nuôi chiên rất nhiều vì nơi đây có nhiều đồng cỏ thích hợp cho việc chăn nuôi chiên, cừu. Chăn chiên là một nghề rất quen thuộc đối với họ. Người mục tử rất yêu thương đoàn chiên, sống gần gũi với chiên, không muốn để một con chiên nào bị bệnh hay hư mất.
Vì thế, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người mục tử với đoàn chiên để nói về Người với nhân loại, cách riêng đối với Hội Thánh là từng người Kitô hữu chúng ta. Giống như người mục tử trong bài Tin Mừng là biết đích danh từng con một, đi trước đoàn chiên và không để cho chiên nghe tiếng người lạ…Chúa Giêsu cũng khẳng định Ngài là mục tử biết từng người chúng ta luôn chăm sóc chúng ta và tâm sự với từng con chiên một là từng người chúng ta để giúp chúng ta không nghe theo tiếng của ma quỷ, của thế gian, của những thế lực không thuộc về Thiên Chúa. Người mục tử đi trước đoàn chiên, nói lên tâm tình của Chúa Giêsu là đi trước nhân loại, bảo vệ nhận loại, không để cho nhân loại bị rơi vào tay của ma quỷ, của sự chết bằng cái chết thập giá và phục sinh của Người. Người đã mang lại sự sống dồi dào cho đoàn chiên là những kẻ thuộc về Người.
Khi chiêm ngưỡng dung mạo của vị mục tử đích thật là Chúa Giêsu, chúng ta được Người mời gọi lãnh nhận vai trò mục tử và đoàn chiên trong đời sống đức tin và đức ái của mình. Vì vậy, chúng ta sẽ sống như thế nào trước lời mời gọi này?
Trong cuộc sống ngày hôm nay, chúng ta đang bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tục hóa của con người. Đó là: Chúng ta thích sống hưởng thụ, ăn chơi sa đọa, tôn thờ tiền bạc, của cải vật chất, tìm kiếm chủ nghĩa cá nhân... Nhiều vị mục tử cũng đã bị cuốn vào vòng xoáy thích sống sa hoa tiện nghi, chỉ biết chạy theo những lợi lộc trần thế mà quên đi nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên và hy sinh vì đoàn chiên.
Chúng ta không chỉ cầu nguyện cho các vị mục tử nói chung mà con phải cầu nguyện cho các giám mục, linh mục trong giáo phận Quy Nhơn chúng ta nói riêng, luôn biết sống dấn thân trọn vẹn, biết hy sinh xả kỷ vì quyền lợi của đoàn chiên để đoàn chiên được tràn đầy ân sủng, bình an và tình yêu của Thiên Chúa. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói về mục tử như sau: “Giám Mục không phải là Giám Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân. Cũng vậy, Linh Mục không phải là Linh Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân: để phục vụ, nuôi dưỡng, chăm sóc dân là đoàn chiên của ngài…” Ngài đòi hỏi phận vụ của linh mục là “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình.” Hiện nay trong giáo xứ của chúng ta, vẫn còn nhiều người chưa về với Chúa, đã chối bỏ Chúa, cố tình loại Chúa ra khỏi cuộc đời mình, đôi khi cũng bị bách hại bởi thế gian…Người mục tử nhân lành là Cha xứ cần phải tìm đến với họ để an ủi, chữa lành và mời gọi họ quay trở về với Chúa.
Trong năm Tân Phúc Âm hóa gia đình, chúng ta cũng cầu nguyện cho chính chúng ta vì mỗi người chúng ta cũng là mục tử trong giáo xứ, trong giáo họ và trong gia đình của chúng ta với vai trò chức việc, làm chồng, làm vợ, làm cha mẹ và làm con cái: Người làm chồng biết yêu thương và chung thủy với vợ, không ngoại tình, không bạo lực. Người làm vợ cũng vậy, biết yêu thương, chung thủy và phục tùng chồng để vợ chồng được hạnh phúc. Bậc làm cha, làm mẹ biết sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái mà Chúa ban cho, biết nuôi nấng, dạy dỗ con khôn lớn, biết chăm sóc gìn giữ từng người con khỏi những nguy hiểm trong cuộc sống hiện tại. Người làm con biết hiếu thảo, vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ để làm đẹp lòng Chúa; Người chức việc biết xây dựng tinh thần yêu thương, hiệp nhất và phục vụ để xây dựng một giáo xứ lớn mạnh về mọi mặt.
Xin anh chị em cũng cầu nguyện cho cha xứ của anh chị em luôn là vị mục tử nhân lành như lòng Chúa mong ước.
Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử tối cao, xin chúc lành và thánh hóa cho những ước nguyện và quyết tâm của chúng con. Amen.
37.Ơn gọi thánh hiến – Lm Dom. Trần Quang Hiền
Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi
Chiều hôm qua tôi đi dâng lễ an táng cho một nữ tu dòng Đaminh Rosalima vừa mới qua đời vào buổi sáng cùng ngày, là cô của một người giáo dân trong giáo xứ của tôi đang phục vụ. Nữ Tu thọ 86 tuổi, trong đó 55 năm sống trong nhà Chúa, nghĩa là hơn nửa đời người sống trong đời thánh hiến, một cuộc đời hoàn toàn sống cho Thiên Chúa là Đấng Tình Quân của mình. Nhìn vào bề dầy đời sống thánh hiến của Nữ Tu này, tôi nhớ đến câu nói mà tất cả những ai là saledieng hay nhắc nhở nhau: “khi nào về với Chuá trên mộ có ghi là tu sĩ saledieng” lúc ấy chúng ta mới biết chúng ta trung thành. Đời sống thánh hiến là một cuộc đời dấn thân, tận hiến cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, là luôn trung thành sống theo lời mời gọi của Tin Mừng, mỗi ngày mỗi nên giống Đức Kitô hơn và sống cho người khác cho đến hơi thở cuối cùng.
Đời tu nhìn bên ngoài rất đẹp nhưng cũng có những hy sinh, từ bỏ để sống triệt để lời mời gọi của đời sống thánh hiến. Vì thế, trên thực tế ở Châu Âu Giáo Hội đang báo động tình trạng khan hiếm ơn gọi, đời sống thánh hiến không còn hấp dẫn nơi người trẻ nữa, nhiều dòng tu đã đóng cửa, nhiều dòng tu chỉ còn những Cha, Thầy, nữ tu đã già. Nếu so sánh ở Việt Nam, chúng ta vẫn còn cảm thấy phải tạ ơn Chúa vì chúng ta vẫn còn nhiều ơn gọi tuy đang trong tình trạng giảm sút so với trước đây, nhưng vẫn còn có nhiều bạn trẻ quảng đại, dấn thân trong đời sống thánh hiến. Nói như thế, tự bản chất đời sống thánh hiến là đẹp, là hấp dẫn, là ước mơ của bao người, là hồng ân của Thiên Chúa, Chúa yêu thương, Chúa mời gọi và thánh hiến, chỉ có điều là mỗi người chúng ta phải nhận ra tiếng Chúa mời gọi và quảng đại đáp trả lại tiếng gọi này.
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ, trong sứ điệp gởi toàn thể dân chúa nhân ngày ơn gọi năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như sau: “Ơn gọi là hoa trái chín mọng trong một cánh đồng được canh tác tốt bởi tình yêu thương lẫn nhau thể hiện nơi việc phục vụ lẫn nhau, trong bối cảnh của một cuộc sống cộng đoàn thực sự. Không có ơn gọi nào được sinh ra chỉ cho riêng mình hay sống cho chính mình. Ơn gọi triển nở từ con tim Thiên Chúa và đâm hoa kết trái trong mảnh đất tốt của dân trung tín với Chúa, và từ những cảm nghiệm của tình huynh đệ. Chẳng phải là Đức Giêsu đã từng nói: “Cứ dấu này mà người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13:35) hay sao?”
Đây chính là câu trả lời cho những thao thức về tình hình ơn gọi giảm sút hiện nay, trả lời cho những chất vấn tại sao các bạn trẻ không cảm thấy bị thu hút nơi những người sống đời thánh hiến nữa? có nhiều lần tôi đã nghe nhiều bạn trẻ nói, nhìn vào cách sống của ông Cha này, ông Thầy kia hay bà Sr nọ con chẳng muốn đi tu chút nào, vì họ sống không triệt để lối sống mà họ đã chọn, vẫn còn lo cho chính bản thân mình, không quảng đại phục vụ người khác, không phải là một mục tử nhân lành..... rồi cũng có nhiều câu hỏi tự chúng ta đặt ra: tại sao giáo xứ, cộng đoàn của tôi ở đây bao nhiêu năm rồi mà chẳng có một mống ơn gọi nào? lỗi do ai? chắc có lẽ mỗi người chúng ta cần phải chất vấn chính mình, tôi có làm chứng một cách hùng hồn về đời sống thánh hiến của tôi để qua đó người trẻ có thể bị hấp dẫn, lôi cuốn muốn dấn thân trong đời sống tu trì hay không? cộng đoàn của tôi có làm chứng về đời sống hiệp nhất, yêu thương, vui tươi trong đời sống thánh hiến và phục vụ người khác hay không? vì ngày nay giới trẻ muốn tận mắt chứng kiến chứng tá của người tu sĩ hơn là qua tu phục, qua những lời giảng dạy. Người trẻ ngày nay bị thuyết phục hơn khi thấy người linh mục, tu sĩ sống khiêm tốn, hy sinh, khó nghèo, quên mình phục vụ người khác. Mẹ Têrêsa thành Calcuta là một mẫu gương sống động nhất về một chứng tá của người tu sĩ quên mình phục vụ những người đau khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi làm cho nhiều người trẻ bị hấp dẫn, lôi cuốn và thế giới phải thán phục.
“Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành, Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). Đức Kitô chính là Mục Tử nhân lành đã hy sinh tính mạng vì đàn chiên, Ngài yêu thương hết tất cả chúng ta và Ngài muốn hết thảy chúng ta đều là những con chiên dễ thương của Ngài, sống trong một ràn chiên của Ngài. Là những linh mục, tu sĩ chúng ta hãy cố gắng sống xứng đáng là những mục tử nhân lành, biết yêu thương, hy sinh, phục vụ, quan tâm đến giới trẻ, thanh thiếu niên để nhờ đó thanh thiếu niên, người trẻ sẽ cảm thấy được yêu thương, quan tâm, được đánh động bởi chứng tá đời sống thánh hiến của chúng ta, qua đó họ sẽ quảng đại dấn thân trong đời sống tu trì. Để có nhiều ơn gọi, mỗi người chúng ta phải quan tâm vun trồng, gieo hạt, Thiên Chúa sẽ cho lớn lên, vì Ngài chính là Chủ mùa gặt, chúng ta là cánh tay nối dài, khơi dậy nơi thanh thiếu niên và giới trẻ lòng quảng đại dấn thân. Amen.
38.Mục Tử: Cửa Chuồng Chiên
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Tin mừng Ga 10: 11-18: Đức Giêsu nói với người Do Thái rằng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên...
Vào ngày 27-4-2017 tỉnh Quảng Ninh Khánh thành cổng chào hoành tráng nhất nước, Công trình cổng chào tỉnh Quảng Ninh được xây dựng trên quy mô trên 120 ha,với tổng số vốn đầu tư gần 200 tỷ đồng. Hình dáng bề ngoài nhìn thật lạ mắt, thế nhưng tự hỏi không biết cổng chào đồ sộ với kinh phí hàng trăm tỉ đồng sẽ mang lại những lợi ích thiết thực nào cho dân cư Quảng Ninh và cho những ai đi qua cổng chào, hay cũng chỉ là nhằm đến “cái nhất nước” và cho “sướng con mắt”?
Trong khi đó, một hình ảnh trái ngược được Tin Mừng hôm nay trình bày vê một cánh cửa, cũng có thể hiểu là một cánh cống, không in dấu những quảng cáo rực rỡ, không phô bày sự hoành tráng đồ sộ, không có nhưng hoạ tiết điêu khắc nghệ thuật, nhưng đó là một cánh của với dáng vẻ bề ngoài rất đơn sơ, rất đỗi bình thường: cánh của của một chuồng chiên. Nhưng cánh của này lại rất đỗi đặc biệt, rất kỳ lạ bởi nó không được đục đóng bởi những cây gỗ hay bằng bất cứ vật liệu xây dựng nào, cánh cửa được làm bằng xương thịt con người, nhưng là con người đã được Thần Khí Thiên Chúa thánh hoá trở thành nơi cho Ngôi Lời nhập thể, chính Đức Giêsu Kitô. Vâng, chính Người đã minh định: Tôi là cửa cho chiên ra vào.
Quả thật, Đức Giêsu, cửa chuồng chiên không được hình thành bởi hàng ngàn tỉ, nhưng bởi một tài tài sản không thể nào diễn tả được, đó là tình yêu vô bờ vô bến của Thiên Chúa dành để cho con người. Đức Giêsu, vì yêu thương nên đã vâng theo Thánh ý Cha, nhập thể làm người, ở giữa con người và cứu chuộc con ngừoi. Cửa chuồng chiên, hình ảnh mà Đức Kitô muốn chỉ về mình, không đứng vô hồn giữa trời đất để người ta chiêm ngắm, không đóng im lìm giữa chốn lao xao kẻ quá người lại, nhưng đó là cánh của của sự cứu độ, vì ai qua của này mà vào chuồng chiên thì sẽ được cứu, đây là cánh cửa của lòng thương xót, bởi Đức Kitô hiện diện trên trần gian để cứu vớt, là ánh cửa của sự sống, vì chình Đức Kitô sẽ nuôi sống đàn chiên no nê bằng chính Thịt và Máu Người. Đức Kitô đã khẳng định: tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Cánh cửa chuồng chiên Giêsu không đứng chơ vơ một mình, nhưng được kết nối với chuồng chiên, Thật vậy, Người là cửa cho chiên ra vào, nơi chốn cho chiên ra vào chính là Giáo Hội. Chuồng chiên Giáo Hội không là nơi được vây kín hàng rào luật lệ, nhưng là cánh đồng bát ngát để chiên được no thoả, là dòng suối mát để chiên nghỉ ngơi, là nơi đàn chiên được che chở giữ gìn bằng tình yêu hiến dâng của người mục tử, nơi đàn chiên tìm được sự bình an bằng tình thương huynh đệ của những người môn đệ Chúa Kitô.
Cửa chuồng chiên luôn kiên vững qua mọi thời đại cho tới ngày cánh chung. Điều đó được thể hiện qua sự uỷ thác của Chúa cho các Tông đồ và được tiếp tục nơi nhưng người kế vị các ngài. Vâng, tình yêu Chúa đối với con người luôn bền vững không bị đứt đoạn. Cho nên, để cho công trình cứu chuộc luôn hiện thực trong thời gian con người lữ hành tiến đến cùng đích của mình, Chúa Giêsu cho dẫu đã về trời, Người đã không để chuồng chiên mất cửa, Người vẫn hiện diện, cửa chuồng chiên vẫn là nơi để những ai ra vào sẽ được cứu rỗi. Để thực hiện điều đó Người đã thiết lập Bí tích truyền chức thánh, và qua những người được Người tuyển chọn, ơn cứu độ tiếp tục được trao ban. Đó là lý do Chúa nhật hôm nay Giáo Hội đặc biệt cầu nguyện cách riêng cho ơn thiên triệu, và cách chung cho đời sống thánh hiến.
Lạy Chúa, tình yêu Chúa dành cho chúng con thật nhiệm lạ, chẳng biết lấy gì đền đáp cho cân, chỉ biết dùng lời cầu nguyện và những việc việc làm thiết thực để nâng đỡ, khích lệ ơn gọi dấn thân làm linh mục, để tiếp tục công việc của Chúa như là Cửa chuồng chiên, hầu mang ơn cứu độ cho những ai ra vào Cửa đó. Amen.
39.Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
(Suy niệm của Lm Anphong Trần Ðức Phương)
Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh, thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Câu xướng trước Phúc Âm cuả các năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm Thánh Gioan (10,14): "Ta là Mục tử nhân lành, Ta biết chiên của Ta, và chiên của Ta biết Ta!" Các bài Phúc Âm năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm của Thánh Gioan:10, 1-10 (Năm A); 10,11-18 (Năm B); 10, 27-30 (Năm C).
Trong các bài Tin Mừng trên đây, Chúa Giêsu xác định Ngừoi chính là cửa của đoàn chiên, và cũng chính là người chăn chiên nhân lành. Chỉ những chủ chiên nào đi theo cửa của Ngừơi (theo đường lối của Người) mới là chủ chiên thật (Gioan 10,2).
Suy nghĩ về Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Cha M. D. Phillippe, O.P. viết những lời suy niệm sau đây:
"Mọi công việc trong cuộc đời truyền giáo của Chúa Kitô, vị Chủ Chăn Nhân Lành, đều đơn giản là những công việc của tình thương xót đối với đoàn chiên, đối với mọi người. Tuy nhiên, chính nơi cơn "hấp hối" tại vườn "Cây Dầu" và trên Thánh Giá mà chúng ta cảm nghiệm được trọn vẹn Lòng Thương Xót của Chúa.
"Mọi khổ đau của những người tội lỗi, mọi hậu quả của tội lỗi, Chúa Kitô đều vui lòng mang lấy vào mình. Không một khổ đau nào của nhân loại xa lạ với Chúa Kitô. Người thấu suốt tất cả và mang lấy tất cả vào trong thâm sâu của trái tim Người. Người đã sống những giây phút thật căng thẳng mà không ai có thể cảm nghiệm được. Người mang lấy tất cả vì tình yêu vô biên đối với mọi người chúng ta. Tình thương xót của Chúa thật huyền diệu và đi đến tuyệt đỉnh!
"Là vị Mục Tử nhân lành, Chúa Kitô biết những điều Người phải làm. Người biết từng con chiên với những yếu đuối và những nhu cầu của từng con chiên. Người biết rằng để trở nên một Mục Tử nhân lành theo đúng ý nghĩa, người chủ chăn phải yêu mạng sống của con chiên hơn mạng sống của mình; phải muốn đặt mình vào hạng những người tội lỗi, vào hạng những người bị ruồng bỏ để có thể cứu vớt mọi người; phải dám 'tự hủy ra không' để có thể chấp nhận mọi bất hạnh, khinh chê, và bị coi như tầm thường hơn hết mọi người!
Khổ hình Thập Giá với ý nghĩa đặc biệt trọn vẹn của khổ đau để cứu chuộc, đã tỏ cho chúng ta thấy rõ tình thương xót vô biên của Chúa. Không từ chối gì cả, Người đã chấp nhận mọi khổ đau, mọi nhục nhã, mọi gánh nặng tới mức không còn có thể chịu đựng hơn được nữa. Như vậy, lòng Thương Xót của Chúa không phải chỉ ở chỗ tìm đến để giúp đỡ những người yếu đuối, mà còn ở chỗ, như một người mẹ, cúi mình xuống tận những kẻ đã sa ngã và cúi xuống sâu hơn họ để cứu vớt họ và nâng họ lên (chứ không phải kéo họ lên; Người đã vác con chiên lạc lên vai và đưa về đoàn, đưa về lại cuộc sống).
Tự hạ mình xuống sâu thẳm, Chúa Kitô đã muốn bị coi như kẻ đáng tội hơn cả Babara (Mat-theu 27,16...), như một kẻ tội phạm công khai, như một kẻ nói phạm thượng, như một kẻ thù của lề luật Moise, kẻ không chịu giữ ngày Sabat, một kẻ nguy hiểm quấy phá dân chúng. Hơn nữa, Chúa Kitô còn muốn trở nên như một đồ vật mà người ta che mắt không dám nhìn, đến nỗi khi đã chết rồi còn bị người ta đâm vào cạnh sườn thấu tới trái tim.
"Như vậy, Tình thương xót của Chúa là một thực thể bao quát tất cả con người, không một chi thể nào trong thân thể của Người không bị thương tích, và linh hồn Người cảm thấy buồn sầu đến chết đi trong cơn hấp hối (Mat-thêu 26,38).
Hy lễ thập giá thật là một sự tôn thờ tuyệt đỉnh và cũng biểu lộ tình Chúa thương xót đến tuyệt đỉnh. Nơi trái tim của Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá vừa mang sự Thờ Phượng (Chúa Cha), vừa mang tình thương xót nhân loại như anh em để giúp đỡ họ, an ủi họ, chuộc lấy mọi tội lỗi của họ và đem lại cho họ nguồn sống mới." (Dịch theo bản tiếng Anh, trong Magnificat, April 2005, Fourth Sunday of Easter; những chữ ở ngoặc đơn là chú thích của người dịch).
Ðọc những dòng trên đây, chúng ta càng hiểu biết sâu xa hơn tình thương xót cuả Chúa Giêsu, Ðấng Chăn chiên nhân lành, đối với đoàn chiên như thế nào, đến nỗi đã chấp nhận mọi khổ đau đến cùng cực và đổ đến giọt máu cuối cùng cho đoàn chiên của Chúa! Và khi không còn sống ở trần gian nữa, Người vẫn tiếp tục "nuôi sống đoàn con" bằng chính Mình và Máu Thánh Người hiện diện thật sự trong Hình Bánh và Hình Rượu (Bí tích Thánh Thể), và thánh hóa đoàn chiên bằng các "phép Bí tích nhiệm mầu."
Thực sự, qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu vẫn ở với Giáo Hội " mọi ngày cho đến tận thế!"(Mattheu 28,20) Chúa Giêsu vẫn là vị Chủ Chăn chính điều hành Giáo Hội và qua các thời đại Chúa luôn luôn dẫn dắt đoàn chiên Chúa nhờ sự lãnh đạo của các vị chủ chăn Chúa chọn. Chúa đã chọn Thánh Phêrô và các Thánh Tông đồ và thành lập Giáo Hội Chúa kể từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Ngài và thánh hóa các Ngài. Từ đó, qua từng thế kỷ, Chúa vẫn tiếp tục gọi và chọn một số người để làm Chủ chiên chăn dắt Ðoàn chiên Chúa.
Chúa chọn ai?
"Chúa chọn những người mà Chúa muốn (Matco 3,13) và trao cho những nhiệm vụ theo Thánh ý Chúa: Người thì làm Tông đồ, người thì làm Ngôn sứ, người thì chuyên rao giảng Tin mừng, người chuyên lo việc quản trị và giảng dạy... (Thơ Epheso 4,11). Không ai có quyền đặt mình vào địa vị trong Giáo Hội, nhưng tất cả đều do Chúa chọn và cắt đặt.
"Nhưng tại sao Chúa chọn con?"
Vào những ngày sắp chịu chức Linh Mục, theo sự hướng dẫn của Cha Linh hướng và Cha Giảng Phòng (giảng tĩnh tâm để chuẩn bị chịu chức Linh mục) tôi thường cầu nguyện và nói thầm với Chúa: "Tại sao Chúa chọn con?"... Rồi vào ngày Lễ Truyền Chức cũng như dịp Lễ "Mở Tay" (Lễ Tạ Ơn) tôi thật cảm động khi nghe ca đoàn hát: "Không phải vì con Chúa chọn con! Nhưng vì bí nhiệm tình yêu Chúa!.
Vâng, "không phải vì con Chúa chọn con" nhưng Chúa chọn "những ai mà Chúa muốn" (Matcô 3,13), sau khi Chúa đã lên núi một mình để cầu nguyện suốt đêm (Luca 6,12). Ðó thật là một sự kỳ diệu của Ơn Gọi theo Thánh Ý Chúa. Chúa gọi Phêrô dù Ông đã "chối Chúa tới ba lần dù Chúa đã cảnh cáo Ông trước!" và lại còn đặt Ông làm Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa đã chọn Phaolô ngay trên con đường Ông đi tìm bắt và bách hại đoàn chiên non trẻ của Chúa! Và suốt đời Ông vẫn phải mang những "yếu đuối" của mình 'Ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối!'... (2 Cor. 11,29) Mọi người được Chúa gọi và chọn đều cảm thấy mình bất xứng và thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó" như Ðức Ðương Kim Giáo Hoàng Benedicto XVI, khi được bầu chọn lên ngôi Giáo Hoàng, trong "Lời Tâm Tình Ðầu Tiên của Ngài" cũng chia sẻ kinh nghiệm đó: "Tôi cảm thấy bất xứng và... thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó..." nhưng "Ơn Chúa đủ cho tôi!" (2Cor. 12,9...); nên Ðức Giáo Hoàng cũng nói tiếp: "Tôi cảm thấy như bàn tay quyền năng của Thiên Chúa nắm chặt lấy tay tôi. Tôi như nhìn thấy ánh mắt tươi cười của Chúa và lắng nghe Chúa nói với tôi đặc biệt vào lúc này: "Con đừng sợ!". Với tâm tình đó, những người được chọn đều khiêm tốn như Mẹ Maria để thưa lời "Xin Vâng!".
Như vậy, chúng ta mới hiểu tại sao Chúa Giêsu đã "lên núi thức suốt đêm để cầu nguyện" (Luca 6,12) trước khi chọn các Tông đồ. Hơn nữa trong đêm trước khi tự trao mình để chịu cuộc khổ nạn để cứu chuộc nhân loại, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa đã cúi mình xuống để rửa chân cho các Tông đồ để dạy cho các Ông bài hoc phục vụ trong khiêm tốn và Chúa đã tâm tình và căn dặn các tông đồ nhiều điều mà Phúc Âm theo Thánh Gioan đã ghi lại suốt các đoạn 13, 14, 15; còn toàn đoạn 17 ghi lại những lời Chúa Giêsu cầu nguyện thiết tha với Ðức Chúa Cha cho các Tông đồ đang hiện diện, cũng như cho các Chủ chăn qua mọi thời đại; đặc biệt trong câu "Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian; nhưng xin gìn giữ họ khỏi mọi sự dữ!" (Gioan, 17,15).
Trong thời gian giúp các giáo xứ Hoa Kỳ, khi gặp gỡ Giáo dân, thường có những người sau khi chào hỏi đã nói với tôi một cách thân tình "Thank you Father for being a priest!" (Cám ơn Cha đã là một Linh Mục!". Chúng ta thường có lòng yêu mến và hằng cầu nguyện cho các chủ chăn trong Giáo hội; nhưng đặc biệt trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, chúng ta hãy dâng nhiều hy sinh và lời cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng cũng như cho các chủ chăn trong toàn thể Giáo Hội, cách riêng các chủ chăn Chúa sai đến làm việc giữa chúng ta.
Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh cũng là Ngày Thế Giới đặc biệt cầu nguyện cho Ơn Gọi (World Day of Prayer for Vocations): Trong Thánh lễ cũng như trong các kinh nguyện, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho có nhiều người được Chúa gọi và chọn để trở nên các nhà Truyền giáo và Chủ Chăn để rao giảng và chăn dắt Ðoàn chiên Chúa.Chúng ta cũng cầu xin với Mẹ Maria, Mẹ Hàng Gíao Sĩ, chuyển cầu cho chúng ta.
40.Cầu nguyện nhiều cho dân chúng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng Ga 10: 11-18: Đức Giêsu nói với người Do Thái rằng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên...
Căn tính Linh mục có hai chiều kích, một hướng lên Thiên Chúa, và một hướng về nhân loại. Hướng lên Thiên Chúa, căn tính Linh mục hệ tại sự thánh thiện. Hướng về con người, căn tính ấy hệ tại dấn thân phục vụ với đức ái mục tử.
Phần xướng đáp phụng vụ Kinh Chiều lễ các thánh Mục tử, chúng ta đọc: “Đây là người đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”. Câu nói ngắn nhưng bao hàm đầy đủ nội dung của sứ vụ Mục Tử. Tình yêu mục tử nối kết cả ba khía cạnh đó: Có yêu thì mới sống hết tình, tận tụy phục vụ. Có yêu thì mới nhớ đến và cầu nguyện cho. Và có yêu thì mới dám hy sinh mạng sống, đây là tình yêu đạt đến đỉnh điểm. Chúa Giêsu - Mục Tử Nhân Lành đã nêu gương về cả ba khía cạnh này cho mọi mục tử trong Giáo hội.
1. Sống hết tình với anh em
Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Ngài rao giảng miệt mài từ sáng đến khuya, quên cả ăn ngủ, mệt lử đến nỗi ngủ say như chết, sóng gió tơi bời mà không hay; dân chúng “tấp nập kẻ lui người tới, đến nỗi thầy trò không có giờ nghỉ ngơi” (Mc 6,31), chữa mọi thứ bệnh tật cho dân, thậm chí cả vào ngày sabbat khiến bị chỉ trích; hóa bánh ra nhiều để nuôi dân đi theo nghe giảng; hóa nước thành rượu để giữ thể diện cho đôi tân hôn. Ngài làm nhiều phép lạ chữa quỷ ám, mù lòa, điếc câm, cả chết rồi cho cũng sống lại. Ngài gần gũi người nghèo, bà góa, trẻ em, bênh vực họ... Biết bao việc làm chứng rằng Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Cầu nguyện cho dân chúng: cho mọi người, cho các môn đệ, cho kẻ ghét mình, cầu nguyện thâu đêm, lúc sắp chết mà còn cầu xin ơn tha thứ cho kẻ giết mình, lại bào chữa rằng vì họ lầm không biết việc họ làm. Tấm lòng của Chúa thật là tuyệt vời. Hy sinh tính mạng vì anh em, đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêu của Chúa: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Ga 15,12). Ngài có thể thoát khỏi cái chết, nhưng ngài không làm: “Không ai có thể cướp mạng sống tôi, nhưng tự tôi hiến mạng” (Ga 10,18).
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là mẫu gương về đức ái mục tử. Ở tuổi 76 khi được bầu làm giáo hoàng, sức khỏe của ngài không tốt, vì đã bị mất một lá phổi. Ở tuổi này người ta nghỉ hưu, nhưng đức Phanxicô đã can đảm chấp nhận. Những năm qua, ngài làm việc thật nhiều, vì ngài biết không còn nhiều thời gian trước mắt. Ngài đã khơi bùng lên niềm vui và hy vọng cho Giáo Hội. Ngài làm say mê hàng trăm triệu con tim, nhiều người bỏ đạo quay về với Giáo Hội, nhiều kẻ lâu nay hờ hững với Mẹ Hội Thánh nay lao vào vòng tay yêu thương vẫn giang rộng chờ đón của ngài. Số người thiện cảm gia tăng. Ngài đang “hồi sinh” Giáo Hội!
Với chủ trương “Giáo hội nghèo cho người nghèo”, ngài yêu thương người nghèo và chọn nếp sống giản dị. Ngài ban hành tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng để mở một trang mới cho công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa, và khích lệ Giáo Hội đứng dậy, mở cửa, ra đi đến tận vùng ngoại vi để loan Tin Mừng. Ngài mở Năm Thánh Lòng Thương Xót để toàn thể Giáo Hội cảm nếm tình yêu tha thứ vô biên của Chúa. Ngài ban hành tông huấn Laudato Si’ kêu gọi bảo vệ môi trường, gìn giữ vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp là ngôi nhà chung mà Chúa đã tạo dựng. Ngài triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới để tìm phương cách giải quyết những thách đố về hôn nhân và gia đình. Ngài đã thực hiện nhiều chuyến tông du mục vụ, chủ lễ bế mạc Đại hội Gia đình Thế giới. Ngài cũng vừa ban tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về tình yêu thương trong gia đình.Ngài đã làm được quá nhiều việc trong một thời gian vắn vỏi! Ngài thật là Mục Tử nhân lành, là hiện thân của Chúa Giêsu. Gương sáng, lời rao giảng và chứng tá của ĐTC Phanxicô đã khiến nhiều giám mục và linh mục quyết định sống theo “phong cách” của ngài, họ tự nhận là thuộc “thế hệ Phanxicô”, từ chối sống trong những tòa nhà sang trọng, tự lái xe, tự đi chợ nấu ăn, sống gần gũi người nghèo, giản dị như một người bình dân, đề cao và bảo vệ quyền lợi của những người thấp kém và trẻ em.
“Người thời nay tin vào những chứng nhân hơn thầy dạy, nếu họ tin thầy dạy, chính là vì thầy dạy ấy cũng đồng thời là chứng nhân” (Đức Phaolô VI). Một trăm bài giảng hay ho không giá trị bằng một việc làm nhỏ bé nhưng đong đầy yêu thương. Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa sẽ chỉ hiệu quả nếu người ta vừa nhận ra niềm tin nơi lời rao giảng, vừa nhận thấy tình yêu thương nơi hành động và phong cách sống của người ấy.
Mọi người kỳ vọng các linh mục sẽ giống Chúa Giêsu Mục Tử theo phong cách của Đức Phanxicô, sẽ là hiện thân của Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Linh mục được đánh giá theo như cung cách phục vụ của ngài: tận tụy, cần mẫn, trung tín, nhưng không (vô vụ lợi), sẵn sàng, nhanh nhẹn, quên mình.
Người giáo dân hôm nay không muốn thấy, không muốn có những mục tử 3 L (làm sang, làm phách, làm biếng), 3 T (tình, tiền, tửu), 3 Đ (độc tôn, độc tài, độc đoán), lè phè, hưởng thụ, lười biếng, chẳng quan tâm đến người khốn khổ, chất trên vai họ những gánh nặng, vô cảm trước những khổ đau của họ, sống xa cách người nghèo, không bênh vực người bị áp bức bất công, không đứng dậy đi ra khỏi nhà xứ để viếng thăm kẻ bệnh tật, người già nua, trẻ cơ nhỡ, để đem về đàn những con chiên lạc bầy đang lang thang trong hoang địa.
Vì linh mục là người của sự linh thánh, nên việc huấn luyện thiêng liêng là quan trọng nhất (ĐTC Phanxicô đã phát biểu rằng, ngài muốn chủng sinh được đào tạo ưu tiên về mặt thiêng liêng), các mặt khác cũng quan trọng: nhân bản, vì linh mục cũng là một con người như mọi người; trí thức, vì linh mục sẽ phải giảng dạy hướng dẫn người khác; mục vụ, vì đó là “nghề” của linh mục. Có thể nói, sau bao nhiêu năm tháng được huấn luyện như thế, linh mục là người hoàn hảo, hay theo cái nhìn chung của mọi người, là một người có tài có đức, giỏi giang. Linh mục phải là người có những nhân đức đối thần (Tin-Cậy-Mến), những nhân đức đối nhân (Bác ái-Khôn ngoan-Công bằng-Can đảm-Tiết độ), những nhân đức tôn giáo (Các lời khuyên Phúc Âm, tha thứ, hiền lành, đạo đức, trung thành...), những nhân đức nhân loại hay còn gọi là đức tính của con người theo quan điểm Á Đông (Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín (với tha nhân), Cần-Kiệm-Liêm-Chính-Dũng (với chính mình).
Được đào tạo kỹ lưỡng như thế, linh mục hẳn phải đạt một mức độ cao trên “đàng nhân đức” mới phải lẽ. Cho nên khi thấy các linh mục không sống đúng với những đòi hỏi của chức vụ và đời sống thì chẳng trách giáo dân bất mãn, và dễ đi đến chỗ bài bác.
Linh mục không tuyên khấn như các tu sĩ, nhưng cũng phải giữ đức thanh bần, khiết tịnh và vâng phục, không thụ động, miễn cưỡng, nhưng như lời ĐTC Phanxicô: “Những lời khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là “chứng từ vui tươi về tình yêu của Thiên Chúa”, khi chúng được cắm rễ trong lòng Chúa thương xót”. (x. “Đức ái mục tử”. Bài giảng tĩnh tâm linh mục GP Phan Thiết 2016, Đức cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long).
2. Cầu nguyện nhiều cho dân chúng.
Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.
Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” (Lc 10,21). Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17).
Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” (Lc 22,42). Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28 ; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13 ; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc 18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)... Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4 ; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.
Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Mục tử luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh Gioan Vianney.
3. Hy sinh tính mạng vì anh em mình.
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài. Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Người làm thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
“Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục: “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”. ĐTC nhấn mạnh thêm rằng mùi ấy cũng có thể phát sinh từ các yêu cầu bất tiện, đôi lúc hoàn toàn vật chất hay hoàn toàn tầm phào. Người chăn chiên phải nhận thức và đồng cảm với ý muốn của đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã nhận thức và đồng cảm cái đau ra huyết trắng của người đàn bà khốn khổ trong Tin Mừng. Muốn có cái mùi ấy, các mục tử phải ra khỏi con người mình, phóng mình tới những vùng ngoại biên nơi có đau khổ, đổ máu, mù lòa, giam cầm đủ loại. Mục tử phải cảm nhận được các gánh nặng và bộ mặt của quần chúng giáo dân, trên vai và trong trái tim mình” (Vũ văn An: Đức Phanxicô và mùi chiên, Vietcatholic.net, 4/1/2013). Linh mục cũng được đánh giá theo như ngài có hay không lòng thương yêu, hy sinh cho đoàn chiên của ngài.
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Tối Cao, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.
Cha sở Gioan Vianney “là mục tử đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: SỐNG ĐỜI SỐNG THIÊN CHÚA (14/06/2025) .: BA BỘ MẶT (14/06/2025) .: BA NGÔI Ý NGHĨA (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU (14/06/2025) .: SỐNG MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM MỘT CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: HAI GIỜ TRONG MƯA (14/06/2025) .: GIA ĐÌNH KITÔ HỮU HIỆP THÔNG NÊN MỘT (14/06/2025) .: TÌNH YÊU KỲ DIỆU (14/06/2025) .: THIÊN CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU (14/06/2025) .: TOÀN BỘ SỰ THẬT (14/06/2025) .: GIẢNG LỄ CHÚA THÁNH THẦN (07/06/2025) .: CHÚA THÁNH THẦN ĐẤNG THÔNG BAN MỌI SỰ (07/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam