Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 44

Tổng truy cập: 1434433

CHỈ MỘT BÁT NƯỚC LÃ

CHỈ MỘT BÁT NƯỚC LÃ

 

(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

Kính thưa quý ông bà và anh chị em rất thân mến!

Một số nơi đã trở lại với các sinh hoạt như Thánh lễ chung, các trường học Công giáo được mở cửa trở lại bắt đầu năm học tiếp theo hoặc năm học mới. Tuy nhiên, mọi thứ không thể như trước kia! Và khi bài suy niệm này đến với anh chị em, có thể tình hình dịch bệnh được kiểm soát!

Nhưng dù gì chăng nữa, việc sống đạo, tuân giữ giới răn yêu thương, làm việc bác ái vẫn tiếp diễn như chính hơi thở của chúng ta. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta một lần nữa “kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, người ấy không mất phần thưởng đâu” (Mt 10, 42). Vậy đối với bản tôi, ai là ‘người bé mọn’ và hành động cho ‘một bát nước lã’  với danh nghĩa là môn đệ có nghĩa gì?

Trong một lớp giáo lý nọ, một em chạc tuổi lớp 3 liền giơ tay phản ứng, muốn trình bày cho chị giáo lý viên đứng lớp vừa cắt nghĩa xong đoạn Tin mừng trên, em đơn sơ hỏi: dạ thưa cô, nhà em không có nước lã, thế thay vì cho người khác một bát nước lã, em cho họ uống coca-cola được không ạ? Chị giáo lý viên nhoẽn miệng cười và nói: nếu được vậy thì tốt quá!!!

Thiết nghĩ, đôi lúc chúng ta cũng có suy nghĩ như em nhỏ trong câu chuyện này mỗi lúc làm việc tốt lành, thánh thiện; tuy vậy chúng ta nên tìm ra ý Chúa muốn nói với mỗi chúng ta trong đoạn Tin Mừng hôm nay một cách thấu đáo có thể nhất.

Trước hết, ‘người bé mọn’ chẳng phải chỉ ám chỉ đến những người có thân hình, dáng vóc bé nhỏ như các trẻ em, những ai suy dinh dưỡng, thiếu ăn thiếu mặc; mà ‘người bé mọn’ này có thể là chúng ta đang cần sự chia sẻ, đang cần tình thương, lòng quan tâm, ‘người bé mọn’ này cũng có thể là những người trong gia đình của chúng ta, không hẳn chỉ nhắm tới ai đó ngoài kia đang cần sự giúp đỡ của chúng ta mà thôi. Hơn nữa, ‘người bé mọn’ này là những người thấp cổ bé miệng, chẳng có địa vị, bị xã hội vứt bỏ, bị bỏ mặc trong gia đình, bị bạn bè cô lập…tất cả những ai đang gặp khó khăn, trắc trở, cần đến bàn tay đỡ nâng, đón nhận của chúng ta, cần đến ánh mắt yêu thương đầy lòng cảm mến, cần đến cử chỉ bỏ mình chia san của chúng ta. Và mỗi khi chúng ta làm gì tốt lành cho ‘người bé mọn’ này cũng chính làm cho chính Chúa, như Chúa đã từng nói trong dụ ngôn ngày cánh chung “kẻ nào làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, cũng đã làm cho chính Ta vậy” (x. Mt 25, 40) và ngược lại, “kẻ nào không làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, cũng đã không làm cho chính Ta” (x. Mt 25, 45). Tương tự điều mà người phụ nữ giàu sang vùng Su-nêm đã nhận ra và đón tiếp nồng hậu tiên tri Ê-li-sha khi ông ghé đến trọ, “bà ấy nói với chồng: này ông! tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một vị thánh nhân của Thiên Chúa…” (x. 2V 4, 9). Thật sự, bà đã nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi tiên tri Ê-li-sha, và tất cả mọi việc bà cất công chuẩn bị, bà chia sẻ với tiên tri (người của Thiên Chúa) cũng chính là làm cho Thiên Chúa, “ai đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và ai đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mt 10, 40).

Và đây là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ đến động lực mỗi khi làm việc bác ái (hay nói theo ngôn từ xã hội: làm việc từ thiện) đó là: tôi đang làm vì lòng mến hay chỉ muốn phô trương? tôi đang làm với danh nghĩa môn đệ của Chúa, hay chỉ muốn phô diễn, giới thiệu danh tánh của nhóm-công ty-tập đoàn của tôi? tôi đang làm đơn giản vì sống giới răn yêu thương, hay muốn cho người khác biết tôi thánh thiện nhường bao và mọi người nên học đòi nơi tôi? Những tư tưởng này ít nhiều diễn ra trong chúng ta. Lắm lúc nó lẫn lộn, khiến chúng ta rối bời không biết đâu là động lực đúng đắn, đâu là điều Chúa muốn mỗi lúc chúng ta sống bác ái.

Thật sự, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải cho đi những gì sang trọng, quý giá cho bằng việc chia san mọi sự nhỏ nhoi và thông thường, nhưng với cả tấm lòng của một người môn đệ đúng nghĩa! Mẹ Thánh Tê-rê-sa miền Cal-cút-ta đã từng cảm nghiệm sâu sắc qua lời này: ‘chúng ta không thể làm nên những việc vĩ đại trong đời, nhưng chúng ta có thể thực hiện những điều nhỏ nhoi với lòng mến lớn lao’ ("In this life we cannot do great things. We can only do small things with great love.”). Nếu chúng ta đối chiếu giữa ‘bát nước lã’ (nội dung chia sẻ/chia san) với hành vi ‘làm với danh nghĩa là môn đệ’ (động lực chia sẻ/chia san), thì chúng ta có thể nhận ra: Chúa không quá chú trọng đến nội dung chia san, cho bằng động lực sẻ chia! Giả như Chúa đòi hỏi chúng ta phải cho ‘người bé mọn’ một lon coca-cola, một chai nước khoáng, một bình nước trái cây…hay thứ gì đắt giá, thì chúng ta có thể kêu trời than đất vì không có khả năng; nhưng đây Chúa chỉ mong mỗi chúng ta cho đi một bát nước lã (một thứ có thể quá bình thường, ai trong chúng ta cũng có thể có hằng ngày, dẫu không có nhiều thì ít!) nhưng với tâm tình của một người môn đệ đích thật của Ngài, cụ thể: là người yêu mến Chúa trên hết mọi sự, hơn cả tình cảm ruột rà, máu mủ, và trung thành vác thập giá mình mà bước theo Chúa mỗi giây phút trong đời (x. Mt 10, 37-38).

Giờ đây, chúng ta cùng nhau dành ít thời giờ ngắn ngủi này trở về với lòng mình, nhìn sâu vào con người chúng ta hầu xét mình: mỗi lúc tôi làm bác ái với tâm thế như thế nào? làm với tâm tình như Chúa đã mong muốn tôi làm hay chưa? v.v…

Lạy Chúa, tuy Chúa chẳng cần

Lời con ca tụng ân cần ngày đêm!

Nhưng được tụng ca êm đềm

Con được gần Chúa, ấm êm cõi lòng.

Chân thành con thơ ước mong

Sống đời bác ái chẳng trông đáp đền

Dẫu rằng cuộc sống lênh đênh

Ngài luôn tha thiết cạnh bên con hiền. Amen!

 

24.Theo Chúa

Nghe Chúa giảng, người ta đã trầm trồ khen ngợi:

- Chưa từng có ai nói hay như Ngài.

Hơn nữa Ngài còn đòi hỏi người ta phải hy sinh. Đúng thế, Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự, kể cả những tình cảm vừa hợp pháp lại vừa thiêng liêng nhất:

- Ai yêu cha mẹ hơn ta, thì không xứng đáng với ta.

Có nghĩa là Ngài luôn luôn phải chiếm vị trí ưu tiên, phải chiếm chỗ nhất trong trái tim và cuộc đời của mỗi người chúng ta.

Mặc dù chúng ta phải thảo kính cha mẹ, nhưng trong những trường hợp xung khắc, Đức Kitô phải luôn luôn phải là nhân vật số một.

Tiếp theo Chúa Giêsu đã xác định:

- “Ai không vác thập giá mà theo ta, thì cũng chẳng xứng đáng với ta”.

Thập giá mà chúng ta phải vác lấy trong cuộc sống, không chỉ là những bắt bớ, những cấm cách về đức tin, mà còn là tất cả những khổ đau, những buồn phiền chúng ta gặp phải . Ngài còn nói tiếp:

- “Ai tìm kiếm sự sống thì sẽ mất, còn ai vì ta mà mất sự sống thì sẽ tìm thấy được nó”.

Thoạt nghe qua, chúng ta thấy lời xác quyết ấy thực là vô lý, nhưng nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy nó thật sâu xa, thật thấm thúy… Sự sống ở đây bao gồm hai ý nghĩa, đó là sự sống phần xác, sự sống đời này và sự sống vĩnh cửu, sự sống đời sau.

Đây quả thực là một niềm an ủi khích lệ lớn cho chúng ta khi gặp phải những bắt bớ, những cấm cách, những khó khăn vì đức tin. Thực vậy, ai luôn chiều theo bản thân và miệt mài tìm kiếm những vui thú cho mình thì sẽ mất đi sự sống vĩnh cửu.

Trái lại, ai từ bỏ mình và những vui thú xác thịt, nghĩa là săn sàng chịu chết vì Đức Kitô thì sẽ tìm thấy được sự sống vĩnh cửu và niềm hạnh phúc nước trời ở đời sau, cũng như sẽ tìm thấy niềm vui mừng và sự bình an ngay từ đời này.

Không ai trên trần gian này hạnh phúc cho bằng các thánh, như lời thánh Phaolô đã xác quyết:

- “Tôi ngập tràn niềm vui giữa những thử thách”.

Hãy vào những nhà dòng khổ tu với một nếp sống khắc khổ và chúng ta sẽ thấy được những khuôn mặt chan hòa niềm vui.

Trái lại, bước chân vào những chốn ăn chơi, chúng ta chỉ thấy những khuôn mặt thất vọng và trống rỗng. Có những người đã tự tử ngay trên tiền bạc và danh vọng của mình.

Trong khi đó, các thánh là những người đã chết với nụ cười bình an trong tình thương của Chúa.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã hy sinh cho Chúa những gì trong cuộc sống bình thường của chúng ta?

Cầu nguyện

Lạy Chúa, qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa đòi hỏi chúng con phải từ bỏ mình, có nghĩa là phtừ bỏ những tư tưởng, những lời nói và những việc làm, khi chúng đi ngược lại với những điều Chúa đã truyền dạy. Đồng thơi Chúa bảo chúng con phải vác thập giá mình hằng ngày. Thập giá đời thường của chúng con, đó chính là những hy sinh gian khổ, những bực bội buồn phiền, những mệt mỏi vất vả chúng con gặp phải trong cuộc sống. Tất cả đã kết thành cây thập giá đời thường Chúa muốn chúng con vác lấy để bước theo Chúa. Có từ bỏ mình và chấp nhận thập giá, chúng con mới thực sự trở thành những người môn đệ của Chúa.

 

25.Đón tiếp

Cách đây vài năm có dịp lên thăm người bạn ở tiểu bang Minnesota tôi nghe kể câu chuyện như sau. Tiểu bang Minnesota ở phía trung bắc nước Mỹ, giáp với Canada, vào mùa đông thường có những trận bão tuyết và nhiệt độ tụt xuống -30 hay -40 độ âm Farenheit. Vào một đêm bão tuyết, chiếc xe hơi của người phụ nữ bị chết máy trên đường tới Rochester. Chị biết rằng sẽ bị chết cóng nếu cứ ngồi lại ở trong xe. Tuy là vùng miền quê, nhưng trên trục lộ chính, cũng có một số nhà dọc theo đường lộ. Chị vào gõ cửa khoảng trên một chục căn nhà nhưng chẳng có ai mở cửa. Sau cùng, có một người lái xe ngang qua thấy chị nằm gục ngã bên vệ đường bèn đưa chị vào nhà thương cấp cứu. Chị được cứu sống, nhưng đã bị chết tất cả các ngón tay, ngón chân và một bàn chân vì giá lạnh.

Phần xấu nhất của câu chuyện là tại mỗi căn nhà nơi chị bước vào gõ cửa, mọi người đều ở trong nhà đêm hôm đó. Tất cả mọi người đều nghe tiếng gõ cửa. Tất cả mọi người đều là các Kitô hữu. Nhưng không một ai đã mở cửa, vì họ sợ trộm cướp sẽ đột nhập vào nhà giữa đêm bão tuyết. Câu chuyện bi thảm này đã xảy ra ở một vùng quê hiền hòa chứ không phải là ở Chicago hay New York, nơi mà thường xảy ra những vụ bắn nhau và giết người mỗi ngày!

Theo tự điển Webter’s, để định nghĩa chữ “hospitality”, “hiếu khách”, tác giả đã đặt nó nằm ở giữa hai chữ “hospice”, chỗ ở săn sóc cho người hấp hối, hay nhà nghỉ chân cho khách vãng lai, và chữ “hospital”, “bệnh viện”, nơi chữa lành. Ý nghĩa đích thực của sự hiếu khách là cái mà chúng ta ban tặng cho khách khi chúng ta mở cửa nhà ra trong tinh thần thực sự là cống hiến chỗ ở và chữa lành cho họ.

Sự tốt lành, tử tế, và cử chỉ bác ái yêu thương với tha nhân là một trong những hoa trái của Chúa Thánh Thần. Sách Giáo lý Công giáo số 901, đã trích dẫn lại tinh thần của Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Lumen Gentium – Anh sáng Muôn dân, đoạn 34 như sau:

“Nhân vì đã được thánh hiến cho Chúa Kitô và được Chúa Thánh Thần xức dầu, các giáo dân đã lãnh nhận ơn gọi kỳ diệu và những phương tiện giúp cho Chúa Thánh Thần sinh ra trong họ những hoa trái ngày càng dồi dào hơn. Đúng thế, tất cả các hoạt động của họ, những việc cầu nguyện và các việc tông đồ của họ, đời sống phu phụ và gia đình của họ, những lao nhọc hàng ngày của họ, những giải lao về tâm trí và thân thể của họ, nếu họ sống những điều này trong Thần Khí của Chúa, rồi cả những thử thách của cuộc đời, nếu được chịu đựng cách nhẫn nhục, thì tất cả mọi sự sẽ trở thành “lễ tiến dâng thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô”. Và trong việc cử hành Thánh thể, các lễ vật này sẽ hợp với sự hiến dâng Thân thể của Chúa để được dâng lên Chúa Cha với tất cả niềm kính thảo. Đó là cách giáo dân hiến dâng tất cả thế giới lên Thiên Chúa, bằng cách dâng lên Chúa từ khắp nơi một sự phụng tự tôn thờ do cuộc sống thánh thiện của họ”.

Nếu “Người khách là Chúa Kitô” thì cuộc sống thánh thiện là cuộc sống biết đón nhận “Người khách” đó.

 

26.Yêu Chúa hơn

Như chúng ta đã biết: Thiên Chúa hứa ban cho Abraham một dòng dõi đông như sao trên trời và nhiều như cát dưới biển. Thế nhưng, hai ông bà đã già mà vẫn còn son sẻ.

Đến khi có được một mụn con trai là Isaac, thì Thiên Chúa lại đòi ông phải đem lên núi, sát tế mà dâng kính Ngài.

Dầy vậy, ông vẫn không lùi bước trước đòi hỏi của Thiên Chúa, mặc dù đã phải trải qua những giây phút giằng co và xâu xé, băn khoăn và lo nghĩ.

Cuối cùng, ông đã dám tin và dám chấp nhận, cho dù ông không hiểu. Ông đã dám yêu mến Thiên Chúa hơn Isaac, vốn là lẽ sống và là niềm hy vọng của ông. Thiên Chúa đã thử thách để ông có dịp bày tỏ tình mến và làm cho tình mến nơi ông được liên tục phát triển.

Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền đòi hỏi con người yêu mến Ngài trên hết mọi sự, bởi vì Ngài là Đấng sáng tạo. Ngài phải chiếm chỗ nhất trong trái tim cũng như trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài chính là giá trị tuyệt vời, vượt lên trên mọi giá trị khác.

Qua đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã đưa ra những đòi hỏi quyết liệt không kém.

Trước hết, Ngài đòi chúng ta phải yêu mến Ngài hơn cả cha mẹ.

Thực vậy, đối với người Á đông, chữ hiếu vừa là một giá trị cao cả, lại vừa là một bổn phận quan trọng. Ngài không bao giờ đi ngược lại điều răn thứ tư về bổn phận thảo kính cha mẹ.

Thế nhưng, nếu có sự xung đột giữa tình yêu đối với cha mẹ và tình yêu đối với Thiên Chúa, thì Ngài đòi chúng ta phải đặt Thiên Chúa lên trên cả cha mẹ, không được vì cha mẹ mà trở nên thờ ơ trước lời mời gọi của Thiên Chúa.

Thực vậy, đã có người ngần ngại và do dự đối với lời mời gọi của Ngài, anh ta muốn trì hoãn một thời gian để chôn cất cha già, hay đúng hơn để lo phụng dưỡng cho đến khi cha già qua đời. Thế nhưng, Chúa đòi anh theo Ngài ngay lập tức, để lên đường đi loan báo Tin mừng.

Trường hợp thánh Phanxicô Assie là một thí dụ điển hình về thái độ siêu thoát đối với những tình cảm gia đình, để sống theo những thôi thúc của Chúa. Đúng thế, thánh nhân đã dám cởi bỏ cả bộ áo quần trên mình, trả lại cho cha mẹ, để đi ăn xin trong chính thành phố mà gia đình mình đang sống.

Mỗi người chúng ta đều có một cội nguồn. Cội nguồn ấy chính là ông bà cha mẹ. Ngoài ra, cội nguồn ấy còn là truyền thống dân tộc, được hình thành từ bao đời, và vẫn còn được tiếp tục trong thời buổi hiện nay.

Vì thế, cần phải mở rộng để đón nhận những giá trị quí báu của dĩ vãng và hiện tại, đồng thời cũng cần phải để thanh lọc những gì không phù hợp với giáo lý Đức Kitô. Điều quan trọng đó là phải làm sao để tinh thần của Đức Kitô trở thành tiêu chuẩn giúp chúng ta nhận ra những giá trị đích thực, cần được gìn giữ và phát huy trong một thế giới đảo điên, vàng thau lẫn lộn.

Tiếp đến, Ngài đòi chúng ta phải yêu mến Ngài hơn cả những đứa con mà chúng ta đã mang nặng đẻ đau.

Thực vậy, có cha mẹ nào mà lại không yêu thương con cái của mình. Tuy nhiên, hai chữ con cái ở đây còn được hiểu theo một nghĩa rộng, đó là tất cả những gì con người đã làm ra.

Nhân loại hôm nay không ngừng sáng tạo và phát minh. Thế nhưng, có những thứ sản phẩm, thay vì là phương tiện giúp đỡ con người, thì đã trở nên một thứ ông chủ, đẩy con người vào tình cảnh nô lệ cho chính những gì mình đã phát minh, đã làm ra.

Cuối cùng, con người chỉ biết cắm đầu chạy theo những lợi nhuận và những tiện nghi vật chất. Một xã hội chỉ biết hưởng thụ, chắc chắn sẽ không còn chỗ dành cho Đức Kitô.

Sau hết, Ngài đòi hỏi chúng taph vác thập giá mình mà bước theo Ngài.

Thực vậy, chúng ta không tìm kiếm đau khổ, nhưng luôn sẵn sàng chấp nhận để góp phần vào thập giá Chúa, cũng như cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Lúc đó thập giá sẽ trở thành dấu chỉ của tình yêu. Bởi vì không ai yêu mình hơn người hiếm mạng sống mình vì bạn hữu.

 

27.Ân tình

Willton Rix có kể một câu chuyện đầy kịch tính như sau “Vào một sáng mùa đông tuyết lạnh, Sadhu Sundar Singh và một người bạn du lịch qua miền núi Bắc Ấn Độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến hai người phải chống trả hết sức khó khăn.

Đang lúc “dầu sôi lửa bỏng” ấy, họ lại thấy một người đàn ông nằm vất vưởng bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại để cứu giúp người bị nạn, nhưng bạn ông cho rằng, nỗ lực ấy chỉ hoài công thôi. Vì để cứu lấy chính mình trong lúc này cũng đã vất vả lắm rồi. Và ông bạn ấy đã bỏ đi.

Chạnh lòng xót thương, Sadhu ở lại bên kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân con người sống dở chết dở ấy. Với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh trên lưng và khó nhọc đi qua vùng bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hòa quyện lấy nhau khiến người kia hồi sinh và cả hai cùng mạnh sức.

Đi khoảng một dặm, họ kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết lạnh cóng bên vệ đường. Họ càng sững sờ hơn nữa khi nhận ra đó chính là anh bạn cùng đi với Sadhu sáng nay.

Nghĩa cử yêu thương của Sadhu đã minh chứng hùng hồn cho lời nói của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay:”Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Ông bạn của Sadhu đã cố giữ lấy mạng sống mình nên đã mất mạng, còn Sadhu liều mất mạng “Vì anh em” nên đã được sống. Một người không có khả năng từ bỏ mình “Vì anh em” thì họ cũng không có khả năng yêu thương. “Phải liều mất đi” để “tìm thấy lại”. Đó là nghịch lý mà Đức Giêsu đã trải qua để nêu gương cho chúng ta. Người đã sẵn lòng chịu chết ô nhục để rồi sống lại vinh quang, và cũng để nói lên lời yêu thương con người.

“Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy”. “Vì Thầy” cũng chính là “Vì anh em”. Biết bao lần, Đức Giêsu đã đồng hóa mình với tha nhân. Đó là sợi chỉ hồng xuyên suốt các Tin mừng. Người tuyên bố:”Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”. Đến ngày phán xét, Người cũng sẽ nói với mỗi người chúng ta:”Mỗi lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy”.

“Người bé nhỏ nhất” không cần phải tìm đâu xa. Họ không ở tận Châu Mỹ, Châu Âu, cũng không sống nơi chân trời góc biển. Họ ở trước cửa nhà chúng ta, họ là những kẻ nghèo hèn khốn khổ, họ là những người cô thế cô thân, họ là những ai không cửa không nhà, họ là những người già cả cô đơn, họ là những kẻ nghiện ngập sa đọa, họ là những ai bị hất hủi lãng quên.

Đức Giêsu còn hứa: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì không mất phần thưởng đâu”. Cho “một chén nước lã” là cử chỉ nhỏ bé ai cũng có thể làm được, dù là một đứa trẻ.

“Một chén nước lã” đối với Chúa lại là “một chén ân tình”. Điều đó cho thấy, Thiên Chúa không hề bỏ sót một nghĩa cử yêu thương nào của chúng ta. Đồng thời Người cũng muốn nói, cho dù chỉ là nghĩa cử bé nhỏ âm thầm, một khi đã được khoác vào tấm áo tình yêu thì nó liền trở nên vô cùng cao cả. Tình yêu chính là trọng tâm của đời sống người tín hữu.

Tình yêu là chiếc đũa thần biến thập giá trở nên nhẹ nhàng, vừa sức cho mỗi người.

Tình yêu là liều thần dược giúp người tín hữu dám liều mất mạng sống vì Thầy.

Tình yêu đã làm cho người tín hữu mến Chúa hơn cha mẹ, con cái, cũng sẽ giúp họ yêu thương phục vụ mọi người cách thiết thực, chân tình.

Sức mạnh phi thường khiến thánh Phaolô vượt qua bao gian nan thử thách trên đường truyền giáo chính là tình yêu. Ngài viết: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi”.

Lạy Chúa, xin cho chúng con dám sống chết cho tình yêu Chúa, cho chúng con biết: Chân thành hơn trong yêu thương, bác ái hơn trong lời nói, nhân từ hơn trong cách cư xử.

Xin cho cuộc đời chúng con mãi mãi là mùa hoa nhân ái.

 

28.Điều kiện theo Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mt 10: 37-42: Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết điều kiện đó là phải từ bỏ tất cả: gia đình, của cải, nghề nghiệp và chính bản thân mình.

Willton Rix có kể một câu chuyện đầy kịch tính như sau “vào một sáng mùa đông tuyết lạnh, Sadhu Sundar Singh và một người bạn du lịch qua miền núi Bắc Ấn Độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến hai người phải chống trả hết sức khó khăn.

Đang lúc “dầu sôi lửa bỏng” ấy, họ lại thấy một người đàn ông nằm vất vưởng bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại để cứu giúp người bị nạn, nhưng bạn ông cho rằng, nỗ lực ấy chỉ hoài công thôi. Vì để cứu lấy chính mình trong lúc này cũng đã vất vả lắm rồi. Và ông bạn ấy đã bỏ đi.

Chạnh lòng xót thương, Sadhu ở lại bên kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân con người sống dở chết dở ấy. Với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh trên lưng và khó nhọc đi qua vùng bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hòa quyện lấy nhau khiến người kia hồi sinh và cả hai cùng mạnh sức.

Đi khoảng một dặm, họ kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết lạnh cóng bên vệ đường. Họ càng sững sờ hơn nữa khi nhận ra đó chính là anh bạn cùng đi với Sadhu sáng nay.

Nghĩa cử yêu thương của Sadhu đã minh chứng hùng hồn cho lời nói của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: ”ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Ông bạn của Sadhu đã cố giữ lấy mạng sống mình nên đã mất mạng, còn Sadhu liều mất mạng “vì anh em” nên đã được sống. 

Trường hợp của Sadhu cũng chỉ nói lên một chút thoáng qua chốc lát, nhưng còn có những trường hợp Chúa đòi ta phải hy sinh liên lỷ và kéo dài cả hàng mấy chục năm như trường hợp của thánh nữ Macđala Môranô.

Năm 1994, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mácđala Môranô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mácđala đã phải nếm mùi tang tóc, chỉ trong vòng một tháng, thần chết đã hai lần đến gõ cửa nhà chị và cướp mất hai cột trụ của gia đình: người cha và người chị cả, những ngày đen tối bắt đầu đè nặng trên vai bà quả phụ Catarina với bốn đứa con thơ dại.

Hồi đó Mácđala mới 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn, thấy mẹ đau buồn và khóc hoài, chị thường nói với mẹ: “mẹ ơi, thôi đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phanxica đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải tới lúc khôn lớn mà ngay từ bây giờ, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mácđala đã ngồi xuống trước guồng tơ dệt chỉ mà chị Phanxica đã để lại.

Một hôm, tình cờ cha Bandenla, người anh họ của mẹ đến chơi và biết Mácđala không được đi học, cha hứa sẵn sàng phụ giúp thêm vào nhu cầu vật chất của gia đình và trả tiền học phí cũng như tiền sách vở cho Mácđala đi học. Sau hơn 10 năm chăm chỉ học tập, chị đã tốt nghiệp và trở thành một cô giáo trường làng, thế là Mácđala đã bắt đầu làm việc để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, hơn nữa, chị biết mẹ luôn ấp ủ một ước muốn thầm kín là có được một căn nhà với mảnh vườn nho nhỏ, những luống rau và mấy giàn nho ngon ngọt. Vì thế, chị đã chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm, giảm bớt chi tiêu không cần thiết. Đến ngày sinh nhật thứ 30 của mình, Mácđala dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn như mẹ mong ước, chị âu yếm nói với mẹ: “thưa mẹ, đây là món quà con xin biếu tặng mẹ, con chỉ xin mẹ một điều là cho phép con tận hiến cuộc sống còn lại của con cho Chúa để đáp lại tiếng gọi của Ngài vẫn thúc giục con từ lâu rồi”.

Quyết định của Mácđala đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chị, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Trái lại, trong tâm hồn chị trào dâng một niềm vui mừng, vì chị có thể thực hiện được ước mơ chị đã ấp ủ từ lâu.

Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời nói của Chúa: “ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “quả thật, Thầy bảo cho anh em rõ, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”.

Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến, trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ, bị bỏ rơi tại đảo Xixilia. Và Chúa đã thưởng công cho chị qua việc Đức Giáo Hoàng tôn phong chị lên bậc chân phước để mọi người ngưỡng mộ và tôn kính.

Kể lại câu chuyện trên để minh họa cho bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng này là đoạn cuối trong bài giảng dạy về truyền giáo của Chúa Giêsu. Ngài nói với các tông đồ, và qua các ông, nói với mọi Kitô hữu về sự từ bỏ tất cả mọi sự để đi theo làm môn đệ Ngài và Ngài hứa ban thưởng bội hậu cho họ.

Tại sao Chúa đòi hỏi như vậy và đòi hỏi như vậy có nghịch lý không?

Quả thực, con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý, một trong những cái nghịch lý ấy là điều kiện để theo Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết điều kiện đó là phải từ bỏ tất cả: gia đình, của cải, nghề nghiệp và chính bản thân mình. Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn theo Chúa, phải từ bỏ hết, phải từ bỏ tất cả, nghĩa là coi Chúa hơn hết tất cả mọi người, hơn hết tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa thôi.

Có người cho rằng: những điều trên đây Chúa chỉ dạy riêng cho những người đi tu mà thôi, nói thế cũng đúng, nhưng những lời Chúa dạy đây không phải là không áp dụng được cho tất cả chúng ta, bởi vì với mỗi người, Chúa cũng đòi hỏi phải từ bỏ, không phải từ bỏ để đi tu hay để làm tông đồ cho Chúa, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cũng có nhiều cái, nhiều điều và nhiều lần phải từ bỏ.

Tóm lại, trong đời sống thường ngày, người Kitô hữu bị giằng co giữa một bên là tình cảm gia đình, bên kia là đòi hỏi của Chúa; hoặc một bên là quyến rũ của tiền tài, danh vọng, sống buông thả, một bên là sự trung thành với lý tưởng Kitô giáo. Trong những trường hợp giằng co như vậy, chúng ta sẽ chọn thế nào và phải làm gì? Bài Tin Mừng hôm nay soi sáng và hướng dẫn chúng ta hãy chọn đúng và thực hành đúng. Amen.

 

29.Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay nếu chỉ nghe thoáng qua, chúng ta dễ có cảm tưởng là Chúa phế bỏ mọi giá trị đã làm nên con người tại thế. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng chỉ có thể xác định được chính mình khi quy chiếu với những tương quan thiết thân nhất: tương quan với cha mẹ, tương quan với con cái, tương quan với chính bản thân. Một khi tước bỏ hết những tương quan ấy, chúng ta còn là gì? Thực ra Lời Chúa không nhằm phế bỏ, nhưng là đặt mỗi tương quan vào đúng trật tự của nó.

Trong thực tế cuộc sống nhân sinh, tùy theo mỗi thời đại, mỗi nền văn hóa, mỗi thể chế, những tương quan này đã chịu biết bao thay đỗi. Trong bối cảnh văn hóa Á Đông xưa, người cha vẫn được nhìn nhận như là thay Trời, nắm toàn quyền trong gia đình, thậm chí có toàn quyền trên sự sống, sự chết của người con. Chúng ta cũng từng nghe câu chuyện Abraham sát tế con mình là Isaac. Một cái quyền mà ngày hôm nay hầu như mọi pháp luật đã đều bác bỏ. Đạo Hiếu là đạo khẳng định nhân tính con người. Kẻ bất hiếu vô đạo không được một nền văn hóa nào chấp nhận, và nó bị loại trừ khỏi cõi nhân sinh. Thế nhưng đạo hiếu cũng không thể miễn trừ cho con người phải coi xã tắc là trọng, phải coi đạo Trời là lớn, từ đó con người nhiều khi phải vị nghĩa diệt thân. Trong chừng mực nào đó, những quan niệm như vậy, tuy từng khống trị suy nghĩ và lối sống bao thời đại, nhưng vẫn chỉ là những nỗ lực nhằm thiết lập trật tự xã hội, gia đình và an sinh của mỗi con người. Và cũng chịu nhiều biến động, khủng hoảng, kéo theo biến động và khủng hoảng toàn xã hội. Ngày nay, với tuyên ngôn nhân quyền, với những thể chế dân chủ, một lần nữa những tương quan thiết thân ấy đã có những thay đổi tận căn: trong đăng ký kết hôn, ngày nay không thấy nói tới cha mẹ đôi bạn; trong giáo dục gia đình, cha mẹ không có quyền đánh con... quyền cá nhân trở thành trung tâm của mọi quyền lợi và nghĩa vụ.

Thực tế ấy, cho thấy những tương quan căn bản làm nên cuộc sống con người luôn luôn phải tự điều chỉnh. Và Lời Đức Giêsu phải được hiểu trong nỗ lực đem lại điểm quy chiếu chân thật nhất cho cuộc sống.

Trước khi nói tới chữ "Từ Bỏ", chúng ta cần phải nhắm thẳng tới đích điểm mà Chúa nêu lên như là đối tượng của hành vi "Từ Bỏ" này: "mà theo Thầy". "Theo Thầy" là đi trên con đường đồng hành với Thiên Chúa để "Yêu Thương", "Hiến dâng mạng sống vì anh em","Rửa chân cho nhau", "đón tiếp anh em", để "cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy"... "Từ Bỏ" là để có "Tình yêu" lớn hơn, "Tình Yêu" của chính Thiên Chúa "Đấng Sáng Tạo", và đấy là trở về với Tình Yêu mà con người đã được tạo dựng, đước trao ban, để là "Hình Ảnh" của Thiên Chúa. Tình Yêu "mà bởi đó người nam đã bỏ cha mẹ mình, để kết hợp với người nữ...". Thánh Phaolô đã nói về tình yêu ấy nơi người Kitô hữu như thế này "chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người." Đi theo Đức Giêsu, tuy là phải bỏ nhưng là để nhận lãnh gấp trăm "Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp." Đó là quy luật của Tình Yêu "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối rữa đi, nó chẳng sinh bông trái..." Người môn đệ sẽ đón nhận mọi tương quan thân thiết nhất của mình trong Đức Giêsu. Bài học này đã trở nên hiện thực dưới chân Thánh Giá: vào lúc đó cả người mẹ, lẫn người môn đệ đã nghe lời gọi "Người ấy là con bà" và "Người ấy là Mẹ con". Và chúng ta đã thấy ở đó Đức Giêsu đã đổi mới mọi tương quan, làm cho nó mang chiều kích siêu việt của Tình Yêu Thiên Chúa, trở nên nguồn sự sống và hạnh phúc thật cho nhân loại.

Quả thật, có thể con người vẫn cố chấp trong nỗi hoài nghi đối với Tình Yêu sáng tạo của Thiên Chúa. Câu chuyện người đàn bà giàu có Sunêm chỉ là trong muôn một. Nhưng Lời Chúa đã nên hiện thực nhờ niềm tin của Êlisa, và Lời Chúa cũng đã nên hiện thực nhờ niềm tin của Đức Maria, của mọi thế hệ môn đệ trong lòng Hội Thánh, mà gần đây nhất trong lòng tin của Cha Thánh Pio, con người tuy giam hãm mình trong 4 bức tường khổ tu, lại làm nên chung quanh mình một đại gia đình thân yêu, mà hằng triệu triệu con tim đã say mến đến với Ngài.

 

home Mục lục Lưu trữ