Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 128

Tổng truy cập: 1425479

ÁNH SÁNG TRONG BÓNG TỐI

ÁNH SÁNG TRONG BÓNG TỐI CỦA HÀNH TRÌNH VỀ GIÊRUSALEM

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Trong bước đi tăm tối về Giêrusalem

Rõ ràng thánh sử Luca muốn nối kết đoạn này vào những biến cố và những đoạn văn trước đó:

Câu hỏi then chốt của Hêrôđê về căn tính thực sự của Đức Giêsu: "Người này là ai mà ta nghe nói đến nhiều?". Ong thắc mắc và "ông tìm cách gặp Người" (9,9)

Lời tuyên xưng của Phêrô với Đức Giêsu như với "Đấng Mêsia của Thiên Chúa" (9,2) và lời tiên báo lần đầu về cuộc

khổ nạn như một đoạn đường bắt buộc phải đi không chỉ đối với Đức Giêsu: "Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, chịu chối bỏ; chịu chết nhưng đến ngày thứ ba người sẽ sống lại (9,22), nhưng còn đối với các môn đệ thân tín của Người: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá hằng ngày rồi theo Ta" (9,23).

Jean-luc Vesco chú giải: "Định mệnh của trò cũng như của Thầy sẽ trải qua 2 giai đoạn, một giai đoạn khổ đau, một giai đoạn vinh quang. Các môn đệ khó mà hiểu được giai đoạn một. Nhưng Đức Giêsu vẫn kiên quyết. Ai muốn theo người đều phải nối kết vận mệnh của mình vào cuộc Khổ nạn là Phục Sinh của Người. Hai khía cạnh của mầu nhiệm cứu độ vẫn là bất khả phân ly" (“Giêrusalem và ngôn sứ của nó", Cerf, trg 38).

Khoảng "8 ngày sau khi nói những lời này" là thời gian Luca đã định vị trình thuật về cuộc Hiển Dung, trong đó hai khía cạnh của mầu nhiệm vượt qua sẽ nối kết với nhau. Đó là."khoảnh khắc thoáng qua lúc tấm màn che phủ căn tính Đức Giêsu được vén lên, lúc vinh quang tàng ẩn trong Người, nhờ qua đau khổ và cái chết, sẽ bừng lên vào buổi sáng lễ Phục sinh, sẽ từ thân thể Người chiếu toả ra.

2. Một thị kiến chói loà trên núi.

Trừ hai ba chi tiết, Tin Mừng thứ ba lặp lại y nguyên những chi tiết giống như Máccô và mát thêu để gợi lại một kinh nghiệm không diễn tả được.

* Nơi biến cố diễn ra hoàn toàn có tính cách biểu tượng đó là một "ngọn núi", theo truyền thống Kinh Thánh, là nơi gặp Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa tỏ bày mạc khải của Người.

* Sự lựa chọn các môn đệ đi theo cũng mang tính chất biểu tượng: "Phêrô, Gioan và Giacôbê" những môn đệ được kêu gọi đầu tiên, những người tại nhà Zai-rô, đã là chứng nhân của sự toàn thắng trên cái chết (8,31-56).

* Khung cảnh của biến cố cũng mang tính chất biểu tượng: Đó là cảnh Đức Giêsu cầu nguyện. Chỉ mình Luca đề cập đến chi tiết này. Theo Tin Mừng thứ ba, lời cầu nguyện luôn đi theo những giây phút trọng đại trong sứ vụ Đức Giêsu.

Lúc Người "cầu nguyện" trong ngày chịu phép rửa, trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán ra (3.21-22). Sau khi lánh vào "núi rừng để cầu nguyện", Người đã chọn 12 môn đệ (6, 12- 16). Khi Người "cầu nguyện một mình" Người đã đưa ra câu hỏi dẫn tới lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9, 18-20). Và chẳng bao lâu nữa, ta sẽ thấy Người cầu nguyện trong vườn Giếtsêmani để tìm sức mạnh đảm đương cuộc chiến cuối cùng; biến hơi thở cuối cùng thành lời cầu nguyện (23.34 và 46); Phục sinh rồi giã từ môn đệ khi đọc lời nguyện chúc phúc cho họ (24,50-51).

- Tại nơi đây, trên núi cao, chính "đang khi cầu nguyện" mà

Đức Giêsu chiếu lên luồng ánh sáng thần linh. Khác với Máccô và Mátthêu, Luca không nói về sự biến hình biến dạng; Thánh sử chỉ nói "dung mạo Người trở nên khác thường" và "Y phục Người trắng rực rỡ”. Sau đó Người viết rằng: “Phêrô và các bạn tỉnh giấc và được thấy vinh quang Đức Giêsu".

Hugues Cousin xác định: "Mặc lấy vinh quang" có nghĩa là tham dự vào ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên địa vị siêu tôn; y phục trắng ánh chớp, có nghĩa Đức Giêsu đã tiến vào khung cảnh thiên đường. Như thế, Đức Giêsu như được tạm thời mặc trước nguồn vinh quang Phục sinh mà Người sẽ được thừa hưởng khi sống lại. Tuy nhiên Luca nghĩ rằng có lẽ nguồn vinh quang này đã tiềm ẩn trong Đức Giêsu từ trước Phục sinh và do kết quả của việc cầu nguyện, Đức Giêsu không thể ngăn chặn luồng vinh quang ấy chiếu toả từ thân thể Người "Tin Mừng theo thánh Luca" Centurion, trg 137).

-Một chi tiết khác rất giàu biểu tượng đó là: Sự hiện diện của hai khuôn mặt lớn trong Cựu ước: Môsê và Êlia, là hai nhân vật tóm tắt tất cả Lề Luật Môsê) và các tiên tri (Êlia), hai nhân vật chính của Cựu ước đã loan báo rằng: "Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới bước vào vinh quang" (Lc 24,26-27).

Sự hiện diện của các ngài là chứng cớ sống động rằng lời tiên báo của Đức Giêsu về tương lai của Người hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh.

-Một chi tiết riêng của Tin Mừng thứ ba đó là "cuộc lên đường của Người" (theo sát nghĩa là: cuộc "Xuất Hành" của Người: vừa chết, vừa Phục sinh, vừa được tôn vinh) mà hai nhân vật Cựu ước bàn tới. Môsê không phải là con người của cuộc Xuất hành. của núi Si-nai, của cuộc vượt qua Biển Đỏ sao? Và Êlia chẳng phải là vị tiên tri lớn đã phải chịu đau khổ vì Thiên Chúa và vì dân tộc trước khi được cất lên trong vinh quang thần thánh sao?

Như một Êlia mới, Đức Giêsu cũng được mời gọi chịu đau khổ trước khi được "cất lên" (9,51) trong vinh quang thiên quốc Người cũng là Môsê mới trong cuộc Xuất hành mới, trong lễ Vượt Qua mới của một Giao ước mới, sẽ vượt qua biển sự chết để giải phóng dân Người và dẫn đưa họ đến Đất

Hứa thật sự là Vương quốc của Cha Người.

- Phêrô có lẽ nhớ đến lễ Lều như một biểu tượng báo trước sự chấm dứt của lịch sử, đã đề nghị nắm chặt khoảnh khắc hiện tại bằng cách dựng "ba lều". Nhưng Luca đã ghi nhận rằng mong ước cuộc thần hiển này kéo dài "ông không biết phải nói gì" vì ông vẫn chưa nhìn thấy viễn thống khổ nạn như một đoạn đường buộc phải đi qua.

- Lúc ấy Phêrô, Gioan và Giacôbê bị bao phủ trong "một đám mây" - Trong Kinh Thánh đó là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa - giống như Đức Maria trong ngày truyền tin, đám mây ấy "phủ bóng che rợp" các ngài. Các ngài "sợ hãi ".

- Chính lúc ấy "một tiếng nói " vang lên trong đám mây. Cũng là tiếng nói khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan.

Nhưng hôm nay, tiếng ấy không còn nói với Đức Giêsu nữa (“ Con là Con Ta, hôm nay Cha đã sinh ra Con”) nhưng nói với các môn đệ của Người: “Đây là Con Ta mà Ta đã tuyển chọn”. Người Tôi Tớ đau khổ (xem Is. 42,1-8). Đức Giêsu, Người đang đồng hành với họ, thường che giấu vinh quang của mình, nay đã thoáng tỏ ra cho họ là Người Con, nơi Người, Cựu ước được hoàn thành; Người là Đấng nói năng với một uy quyền lớn hơn Môsê và Êlia nên ta phải "lắng nghe" Người là Đấng ta phải đi theo trên con đường dẫn về Giêrusalem: về vinh quang, qua thập giá.

3. Quy hướng về cuộc Xuất hành của Đức Giêsu.

Giờ đây mọi sự trở lại bình thường; "họ chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu ". Tạm thời, các môn đệ "im lặng" cho tới buổi sáng sau đêm khổ nạn, mọi sự chợt có ý nghĩa dưới ánh sáng ban mai ngày Phục sinh, ngày mà Chúa Thánh Thần của Lễ Hiện Xuống sẽ tháo cởi miệng lưỡi để họ làm chứng về những gì đã thấy đã nghe. Nhưng họ hiểu rằng từ nay họ sẽ cùng Người dấn thân vào một định mệnh vượt quá sức họ. Cần phải lên đường, đường đi về Giêrusalem chỉ mới bắt đầu. Định mệnh đó phải diễn ra trong niềm thao thức lắng nghe lời vị tiên tri, Con Thiên Chúa là Người Tôi tớ vừa mạc khải cho biết chuyến xuất hành lên Giêrusalem là thiết yếu. Giờ đây, Đức Giêsu chỉ còn một mình, nhưng ta phải bước theo Người.

Con Người tiến về sự chết, nhưng cũng là tiến về vinh quang cuộc biến hình vừa biểu lộ và các tông đồ đều được mời gọi bước theo số phận của Người.

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Điểm dừng chân ơn phúc nơi cộng đoàn ngày Chúa nhật.

(F. Deleclos trong hãy cầm lấy Lời Chúa mà ăn", Centurion-

Duculot trg 195).

Phêrô, Giacôbê và Gioan đã bỏ thuyền, bỏ lưới mà theo Đức Giêsu. Sự sợ hãi đã nhường chỗ cho lửa nhiệt tình và những lời hứa về Nước Trời đã chắp cánh cho họ. Nhưng đường thăm thẳm và đích điểm còn quá xa vời. Từng say sưa với những thành công vang dội của Thầy, giờ đây họ chán nản khi gặp chống đối dữ dội. Đã thán phục và đón nhận Đấng Mêsia bây giờ vỡ mộng khi thấy Người bị phản đối. Cứ phân vân giữa "những sự dưới đất" và "những sự trên trời", ta có thể tin tưởng vào ai, tin tưởng cái gì?

Đây là lúc thuận tiện để tỉnh cơn mê, vươn vai đứng dậy để chiêm ngưỡng "dung nhan của Chúa" và sẵn sàng lắng nghe Lời Người. Ánh sáng chói chang, làn sóng hạnh phúc khôn tả, thị kiến thoáng qua về "thế giới khác" với cõi phàm trần nơi ta cư ngụ. Cám dỗ muốn bám vào cái kinh nghiệm tuyệt vời trong phút chốc.

Từ nay họ biết rằng Đức Giêsu là Đấng được Cha sai đến. Họ đã nhìn thấy vinh quang của Người khiến dung mạo Người ra khác. Tuy đã thấy dung nhan đời đời thực sự của Người, nhưng từ nay họ vẫn chỉ được nhìn khuôn mặt xác phàm của Người, khuôn mặt chẳng bao lâu nữa sẽ lênh láng máu.

Hãy nghe Lời Người! Nghe Người và theo Người tìm lại con đường phiêu lưu dưới đồng bằng.

Dù vật vã say ngủ và thổn thức bất an, hay sa lầy trong những thói tật xưa cũ trên đường, ta vẫn được Đức Giêsu mời gọi lên núi cầu nguyện.

Thánh lễ là điểm dừng chân ơn phúc, là ánh sáng chân lý là mạc khải hành trình là ý nghĩa cuộc hành hương của ta. Một dừng chân vắn vỏi để lắng nghe, để chiêm niệm, để biến hình, rồi sau đó với niềm phó thác, dấn thân sâu xa hơn trong mịt mờ sương mù của những cái thường ngày.

2. Khi con Người chiếu toả Thiên Chúa

(G. Bossière trong Thiên Chúa rất gần, năm C", DDB, trg 35-36).

Khi bị khinh miệt, bị săn đuổi, các Kitô hữu vẫn giữ được lòng can đảm nhờ nói về Đức Giêsu. Trong số những kỷ niệm trao đổi cho nhau, có đoạn văn tươi đẹp này: Đức Giêsu hiển dung, đột nhiên chói ngời ánh sáng thần thiêng. Việc toả sáng phát xuất từ bên trong bản thân Người: "Dung mạo Người trở nên khác thường". Một con người chiếu toả Thiên Chúa! Và khoảnh khắc khiêm tốn nhất của đời Người đã đem đến sự Hiện Diện như thế.

Hằng ngày, ta vẫn nghe nói. "Nhân loại không xinh đẹp". Con người có thể làm được tất cả. Thật ra nhân loại thường bị biến dạng vì bạo lực, ích kỷ hèn hạ, và thật thảm hại, lịch sử những điều ghê sợ vẫn chưa chấm dứt. Cần phải tỉnh táo tiến bước. Tuy nhân:ân nhân loại thật sự là đẹp, và con người - theo kiểu nói mạnh của những Kitô hữu thế kỷ đầu tiên “có khả năng đạt tới Thiên Chúa".

Biết bao người, nổi tiếng hay vô danh, đã biểu lộ Thiên Chúa qua lòng can đảm, qua sức mạnh tình yêu, qua sự hy sinh trong đời sống hằng ngày của họ. Sự biến hình diễn ra rạng ngày ở khắp nói trên trái đất: Sự biến hình là năng lượng thẳm sâu của lịch sử, năng lượng ấy giúp con người tiếp tục dong duổi đường trường. Môsê, Êlia là hai khuôn mặt vĩ đại của quá khứ hai con người bằng lửa đã đưa dân qua những chặng đường hiển hách. Các ngài cũng có mặt và nói về "cuộc lên đường của Đức Giêsu về “cuộc xuất hành" của Người. Một chuỗi các thế kỷ vừa khép lại và một kỷ nguyên mới sắp bắt đầu.

Ba tông đồ, ba kẻ thân tín nhất, muốn ở lại cắm lều trong ánh sáng, khai mạc thành đô và các lễ hội vinh quang. Không được phải đi thôi. Cuộc biến hình đó chính là một hành trình, phải mất hằng thiên niên kỷ. Ta vẫn chưa leo lên đỉnh núi, chưa cầu nguyện cho đủ đâu.

Còn Đức Giêsu đã hướng đích điểm về Giêrusalem, sự đương đầu, phiên toà và cái chết. Chính trên giá khổ hình mà Người đã xé đôi chân trời trần gian để thời gian liên tục.

Người vẫn là Tin Mừng, là nắm men trong các lương tâm, và Người chỉ cho ta thấy thành đô đang kêu gọi mọi xã hội hãy biến đổi tận gốc rễ. Đức Giêsu, tiêu điểm, chuẩn mực, là khuôn mặt thần linh của nhân loại chúng ta. Cuộc sống của Người sẽ mãi mãi biến hình cuộc sống của ta.

 

90.Chúa Nhật 2 Mùa Chay

(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)

BIẾN HÌNH TRÊN NÚI

1. Chúa Giêsu đang ở trong một khúc quanh quan trọng của sứ mạng Ngài. Việc rao giảng ở Galilê đã kết thúc. Trong nội bộ nhóm môn đệ. Phêrô vừa suy tôn Ngài là Đức Kitô của Thiên Chúa (9,20) và Chúa Giêsu, khi đón nhận lời tuyên tín ấy, đã hoàn toàn thêm bằng việc loan báo cuộc tử nạn của Ngài (9,22): Ngài không phải là kẻ chinh phục hiển hách mà từ bao đời vẫn mong chờ, cũng không phải là Đấng giải phóng chính trị mà người đương thời mơ tưởng, nhưng là Đấng Messia chịu đau khổ. Thánh giá nằm cuối chặng đường sứ mạng Ngài và là luật sống của Ngài cũng như của các môn đệ (9,23-26): thật là một viễn tượng khắc khổ cay đắng, nhưng đưa đến vinh quang nước trời (9,27). Cuộc biến hình làm cho các môn đệ thấy trước chính vinh quang đó, hầu soi sáng ý nghĩa của cuộc thử thách sắp đến. Chúa Giêsu dành riêng mạc khải này cho ba môn đệ đã đến rất gần mầu nhiệm của Ngài: Phêrô, Giacobê và Gioan. Cả ba cũng vừa được chứng kiến sự sống lại của con gái ông Giairô (8,51-56).

2. Bài trình thuật của Lc về cuộc biến hình có các đặc điểm chung của phúc âm thứ ba. Tiếng metamorphpthê ("đã biến hình”, coi Mc 9,2; và Mt 17,2) xem ra Lc đã cố ý tránh không dùng; nó được thế bằng câu: “dung nhan mặt Ngài ra khác”. Quả vậy, phải tránh cho các độc giả Kitô giáo gốc lương dân hình dung ra một tương tự nào đó giữa biến cố này với những chuyện hoá thân của thần thoại ngoại giáo.

Chỉ có Lc ghi rõ Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện và cuộc biến hình xảy ra đang khi Ngài cầu nguyện, như thế là kết quả của lời cầu.

Trong Púc âm thứ ba. Môisen và Êlia cũng được mặc lấy vinh quang thiên quốc, hai ông được trình bày như sau: “Có hai người là Môisen và Êlia... hiện đến trong vinh quang”. Có nên từ đó suy luận rằng nhị vị ấy tiên báo"hai người mặc áo chói loà” trong trình thuật phục sinh (24,4) hoặc tiên báo “hai người y phục trắng ngời” (Cv 1,10) đến cắt nghĩa cuộc thăng thiên siêu phàm cho các tông đồ chăng? Điều đó xem ra hoàn toàn thích hợp với dòng tư tưởng của tác giả phúc âm thứ ba. Êlia đã được cất về trời (2V 2,11; 1Mac 2,58; Hđ 48,9); còn trong kinh thánh (Đnl 34,5), cái chết của Môisen bao trùm màn bí ẩn, nên chắc hẳn đã tạo cơ hội phát sinh cuốn nguỵ thư được người ta biết đến dưới cái tên “sự thăng thiên của Môisen”; sau cùng, việc Chúa Giêsu kết thúc đời trần gian được gọi là cuộc “siêu thăng”, như tiếng dùng cho Êlia (9,51; x.Cv 1,2.11.22; Mc 16,19) Tất cả những dự kiện góp chung lại đó làm cho chúng ta tin rằng sở dĩ Môisen và Elia có mặt trong bài trình thuật của Lc về cuộc biến hình là vì họ mang tư cách những nhân vật thiên quốc đến báo trước vinh quang tương lai của Chúa Giêsu. Các dữ kiện ấy cũng khiến ta tin rằng trong phúc âm thứ ba quang cảnh này trước hết là tiên trưng của biến cố thăng thiên. Đám mây, mà tác giả phúc âm muốn người ta chú ý vì đã làm cho các môn đệ sững sờ, có thể đem so sánh với đám mây thăng thiên (Cv 1,9) mà một ngày nào đó sẽ mãi mãi che khuất Chúa Giêsu khỏi mắt người đời.

3. Điểm đáng chú ý của bài trình thuật là việc Môisen và Elia đàm đạo với Chúa Giêsu về cuộc “xuất hành” của Ngài, nghĩa là cái chết của Ngài “sắp hoàn tất tại Giêtusalem (c.31). Cũng như ở chỗ khác, Lc là tác giả phúc âm duy nhất dùng tiếng doxa (vinh quang:c.32); mối liên hệ ông ta tạo ra giữa sự tử nạn và vinh quang rất gần với quang cảnh của Ga 12,27-28 mà người ta thường coi là tương ứng với câu chuyện Biến hình của phúc âm nhất lãm.

Người ta không nhất trí mấy về ý nghĩa chữ “xuất hành” (exodus). Nhiều người hiểu là “kết thúc” hay là “chết”. Theo nguyên tự, chữ đó có nghĩa là “ra đi”, mà người Pháp dịch là exode. Lc có lẽ xem toàn thể cuộc tử nạn, sống lại và lên trời như là một cuộc xuất hành mới: nhờ các cuộc tử nạn, sống lại và lên trời như là một cuộc xuất hành mới: nhờ các khổ đau của Ngài, Chúa Giêsu rời bỏ Giêruselem cứng tin, tương ứng với Ai cập, để đi vào vinh quang, tương ứng với Đất hứa của cuộc xuất hành xưa. Với lối chú giải này, người ta đi đến kết luận rằng: cuộc xuất hành mà trong Mc và Mt trùng vào những ngày Chúa Giêsu bắt đầu đời sống công khai, thì lại được Lc cũng như Gioan đặt vào chặng cuối của cuộc sống Ngài ở trần gian. Cuộc viễn du 40 năm của dân Do thái tiến về đất hứa tương ứng với 40 ngày (Cv 1,3) từ khi sống lại đến lên trời. Tuy nhiên phải nhận rằng cách giải thích này còn gây nhiều vấn đề nan giải. Điều chắc chắn là tiếng xuất hành (exodos) không phải là tiếng thường dùng để chỉ sự chết (x. F,. Josephe, Ant. Jud. 4,8,2). Nhưng trái với hoài niệm xuất hành, người ta thấy rõ là sách tông đồ công vụ gọi cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc “tiến vào” (trong sứ mạng công khai) và “đi ra” (1,21; 13,24).

4. Như các biến cố khác của cuộc đời Chúa Giêsu, kể cả phép rửa và cám dỗ, cuộc biến hình trong phúc âm thứ ba được qui hướng về tấn kịch cuối cùng và hướng về Giêrusalem. Ngoài những yếu tố khác nhau được ghi lại trên đây, Lc còn là người duy nhất ghi lại điều này: trong cuộc biến hình cũng như ở vườn Giêtsimani, các môn đệ mê ngủ mà họ chỉ chứng kiến sự kỳ diệu khi thức dậy. Trong cùng một ý nghĩa đó, việc Phêrô xin dựng ba lều để kéo dài thời gian đặc ân làm cho ta liên tưởng đến việc hai khách bộ hành đi Emmau cầu xin Đấng - sống - lại ở với họ lâu hơn nữa.

5. Ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa, đã có tiếng từ trời phán ra để trao cho Ngài một sứ điệp tương tự: “Con là Con ta, hôm nay ta sinh ra con” (Lc 3,22). Đó là lời Chúa Cha nói với Con Ngài, là lời tấn phong Đấng Messia theo kiểu CƯ (Tv 2,7) là lời khai mạc sứ mệnh của Đấng cứu thế (theo Mt 3,17: lời Tc nói với đám đông để giới thiệu cho họ Đấng Messia)

Còn trong cuộc biến hình, Chúa Cha ngỏ lời cho chính các môn đệ. Ngài mạc khải cho họ mầu nhiệm Chúa Giêsu: Ngài là Con Đấng đã được chọn. Danh hiệu “Đấng đã được chọn” này, tái xuất hiện khi Chúa chịu treo trên thập giá (23,35), đã gợi lại hình ảnh người tôi tớ (trong Is 42,1), vị tiên tri mang ánh sáng đến cho muôn dân và dùng cái chết để chuộc tội muôn người.

KẾT LUẬN

Cuộc biến hình là một gạch nối giữa ánh sáng mau vụt qua của phép rửa và ánh sáng rạng ngời của ngày phục sinh. Trong việc lên Giêrusalem, Chúa Giêsu thấy mình được lời Chúa Cha xác nhận trong sứ mạng Messia chịu đau khổ: Chúa Giêsu là Lời mà hết thảy mọi người phải nghe, là vị hướng đạo chắc chắn cho cuộc xuất hành cuối cùng tiến về cuộc sống sung mãn.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Luật muôn đời của đức tin là: vinh quang Thiên Chúa bao giờ cũng chỉ được ban cho chúng ta trong một chớp sáng mau qua vào những lúc được an ủi thiêng liêng sâu xa nhất: vừa sáng đủ để củng cố cho đức tin, vừa ngắn ngủi để khỏi xâm phạm tự do của nó. Suốt thời gian thử thách Thiên Chúa vẫn là Vị Thiên Chúa mai ẩn đối với người tín hữu, bởi vì Ngài là Cha và vì Ngài muốn được các tâm hồn tự do yêu mến.

2. Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha đối với việc Ngài chấp nhận cuộc tử nạn với tình yêu. Quả thật, ít hôm trước, Chúa Giêsu đã loan báo cho các tông đồ cuộc tử nạn sắp đến của Ngài. Ngài hoàn toàn ý thức Ngài đang tiến về cái chết. Ngài đón nhận cái chết như do ý muốn Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Và để đáp trả lời vâng phục đầy tình yêu của con, Chúa Cha mặc cho Chúa Giêsu ánh sáng và vinh quang. Một thời gian nữa, Thiên Chúa cũng làm cho như thế tại Giêrusalem. Chúa Giêsu sẽ uống chén đau khổ và chén sự chết vì tình yêu vâng phục thánh ý Chúa Cha. Và để đáp lại tình yêu đó, Chúa Cha sẽ phục sinh con Ngài trong ánh sáng và vinh quang. Trong đời sống Kitô hữu chúng ta cũng vậy. Nếu trong một vài lúc, sự vâng phục thánh ý Chúa Cha xem ra là một thánh giá nặng nề, chúng ta hãy tin chắc rằng ngày kia sư vâng phục đó sẽ là nguồn vâng phục khôn tả. Và ngay trong cuộc đời này, chúng ta đã được sự bình an của Chúa Giêsu. Với Ngài chúng ta có thể nói: “Tôi không ở một mình, vì có Cha ở với tôi, vì tôi hằng làm đẹp lòng Ngài” (Ga 8,29).

3. Chính đang khi cầu nguyện mà Chúa Giêsu được biến đổi. Thông thường các thánh, hình như cũng được biến đổi nhờ cầu nguyện và ngợi khen. Điều đó không lạ gì cả. Cầu nguyện là một sự gặp gỡ với Chúa Cha, làm chúng ta nên giống Ngài, ít ra là về tinh thần nếu không phải là về thể xác như trường hợp Chúa Giêsu và các thánh. Nếu chúng ta trung thành cầu nguyện, chắc chắn dần dần Chúa sẽ thông ban cho chúng ta ngay trong cuộc sống này một chút gì đó của sự bình an, của niềm hy vọng rạng rỡ của hạnh phúc Ngài.

4. Sau cuộc biến hình, các môn đệ gặp lại Chúa Giêsu với dáng vẻ tầm thường và cuộc sống thường nhật của Ngài lại tiếp tục. Và chỉ sau khi phục sinh, họ lại thấy Chúa Giêsu trong vinh quang của Ngài. Chúng ta cũng vậy, sau khi được an ủi nhiều, sau những cử hành phụng vụ đẹp mắt làm chúng ta sốt sắng, chúng ta lại trở về cuộc sống thường nhật. Tuy nhiên Chúa Giêsu vẫn tiếp tục ở với chúng ta trong mọi biến cố, mọi hành động thường ngày của đời sống. Trên đường đời, cho dù gặp nhiều thánh giá, nếu chúng ta bền tâm đi theo Ngài, một ngày kia chúng ta sẽ gặp Ngài trong mối thân tình êm ái còn hơn cả tình thân thỉnh thoảng chúng ta nếm được trên trái đất này. Vì khi đó, chúng ta sẽ thấy Ngài rõ ràng, mặt đối mặt. Khi đó, chính chúng ta cũng được biến đổi cho đến muôn đời.

 

home Mục lục Lưu trữ