Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Thống kê truy cập
Đang online: 62
Tổng truy cập: 1423787
Làm Thế Nào Để Trở Thành Linh Mục..1
Cập nhật : 17-09-2009 |
LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRỞ THÀNH LINH MỤC CHO GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM NGÀY NAY?
Trịnh Nhất Định Vài cảm nghĩ… Nhiều người cho rằng ở Việt Nam ta ngày nay, việc giáo dân góp ý với Giáo hội – gồm các vị hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân – về việc đào tạo linh mục, về cách sống chứng nhân, cách rao giảng Tin Mừng và cách thi hành chức vụ thừa tác viên của Giáo hội là “bằng thừa”, vì ai cũng cho rằng các linh mục đã được đào tạo rất kỹ, rất lâu, được chọn lọc rất gắt gao rồi mới được “đỗ cụ”, vì thế, chúng ta chỉ cần đọc kinh “cầu cho các linh mục” trong các thánh lễ chủ nhật là đủ rồi. Điều nhận xét đó rất đúng. Qủa thật, như chúng ta đã chứng kiến, suốt hơn 34 năm qua, Giáo hội Công giáo VN đã hoàn thành một cách quá xuất sắc nhiệm vụ đào tạo các linh mục trong hoàn cảnh khó khăn chung của cả đất nước, trong thế giới ngày nay đầy biến động gay gắt, đầy những cơn bão “tôn sùng vật chất” làm điên đảo cuộc sống đạo trên toàn cầu… Chúng ta phải công nhận đó là một hồng ân to lớn của Chúa đã ban cho Giáo hội Công giáo VN ta, vì: - Số các linh mục Dòng cũng như Triều, ngày càng thêm đông hơn bao giờ hết, - Ở nhiều địa phận, các linh mục đã được đào tạo cả về đạo lẫn về đời rất kỹ lưỡng trong một thời gian dài: 4 năm học đại học quốc gia hay dân lập – vì không có đại học Công giáo – để lấy bằng cử nhân. Sau đó là 2 năm ứng sinh, 2 năm học triết học tây phương, rồi 1 năm đi giúp xứ. Tiếp theo là 4 năm thần học, cuối cùng là 1 năm đi giúp xứ trước khi được thụ phong linh mục. Tổng cộng là 14 năm, tính từ đại học trở lên. Nói cách khác, các linh mục ngày nay đã nhận được một nền giáo dục đầy đủ cả đời lẫn đạo, đã được thử thách một thời gian dài đủ để có sự lựa chọn chín chắn, tự do trước khi chọn đời sống tận hiến linh mục tại VN. Như thế, việc góp ý … có còn cần thiết nữa hay không? Theo tôi thì vẫn còn cần thiết, vì những lý do sau đây: muốn phát triển Đạo ngày càng tốt hơn thì phải không ngừng canh tân đường lối giáo dục và tìm ra được những yếu tố nhân văn và siêu nhiên làm điểm tựa mới cho linh mục. Và đặc biệt, vì tôi không bao giờ quên được những lời chỉ dạy trực tiếp của Đức cố Hồng Y Trịnh văn Căn và của một vài vị Giám Mục nữa, là: phải đóng góp ý kiến xây dựng cho Giáo hội Công giáo VN khi có thể được, để Giáo hội ngày càng phát triển tốt hơn, đúng với ý Chúa hơn. Như vậy, đóng góp ý kiến xây dựng luôn luôn là cần thiết… Riêng tôi, tôi xin đóng góp ý kiến về 4 vấn đề liên quan đến câu hỏi “Làm thế nào để trở thành linh mục tuyệt vời cho Giáo hội Công giáo VN ngày nay?” như sau: - Làm thế nào để các bài giảng của các linh mục VN ngày chủ nhật có chất lượng cao hơn. - Làm thế nào để các bài viết của các linh mục VN trên các website đây đó được sâu sắc hơn. - Làm thế nào để các lời phát biểu về những vấn đề đạo-đời của các linh mục VN ở những nơi công cộng, ở các bàn hội nghị thể hiện được đầy đủ bản chất công bằng và bác ái, công lý và hòa bình của Đạo Công giáo toàn cầu nhưng bằng cách diễn đạt mang đậm nét văn hóa VN. đầy hiền hòa, nhẹ nhàng và tế nhị nhưng lại rất hữu hiệu…trong mọi hoàn cảnh. - Làm thế nào để các linh mục VN ngày nay sống vững vàng và sâu sắc hơn đời sống linh mục của mình giữa lòng dân tộc. Hơn nữa, tôi muốn đóng góp vì tôi thấy những lời đề nghị của tôi, đã đến lúc, có thể từng bước thực hiện được dễ dàng hơn những năm trước đây, vì ngày nay chính sách của Nhà Nước Việt Nam đã cởi mở rộng rãi hơn, thuận lợi hơn trước rất nhiều; vì các điều kiện vật chất của Giáo Hội Công Giáo VN cũng đã được cải thiện đáng kể hơn trước cho việc đào tạo: điều kiện học tập, ăn ở, sinh hoạt tốt hơn, bớt lo lắng về vật chất hơn, nhờ vậy chủng sinh có giờ học tập, tu luyện nhiều hơn…; và vì một lý do quan trọng khác nữa, đó là giáo dân VN ngày nay có trình độ nhận thức đạo-đời cao hơn trước nhiều, do họ tự chủ động học tập về Tin Mừng, về giáo lý thần học, theo dõi những biến chuyển của Giáo hội trên toàn thế giới nhờ những phương tiện truyền thông ngày càng thuận lợi hơn…như sách báo, các trang web, các kênh truyền hình quốc tế…vân vân… Tóm lại, hoàn cảnh mới của Giáo hội công giáo VN, của Đất Nước VN và của toàn thế giới ngày nay rất thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng đào tạo của các linh mục và xây dựng thành công những điểm tựa mới cho các linh mục VN. Như thế, hy vọng sẽ giải quyết được phần nào những vấn đề nêu trên. Bài này gồm hai phần: Phần I : Xây dựng một chương trình đào tạo linh mục theo mô hình mới. Phần II : Xây dựng một điểm tựa mới cho các linh mục. PHẦN I XÂY DỰNG MỘT CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO LINH MỤC THEO MÔ HÌNH MỚI. Để giải quyết tận gốc 4 vấn đề cấp bách nêu trên đây: nâng cao chất lượng bài giảng, nâng cao sự sâu sắc của bài viết, nâng cao chất đạo của các lời phát biểu và nâng cao sự vững vàng và hiệu quả của đời sống linh mục, tôi xin đưa ra 3 đề nghị sau đây: Đề nghị 1: Đề cao ý nghĩa thần học mục vụ dấn thân (théologie pastorale engagée) trong việc giải thích Kinh Thánh . Xin các linh mục chú trọng hơn nữa việc đề cao ý nghĩa thần học hơn ý nghĩa đạo đức học (morale) trong bài giảng, bài viết, bài phát biểu, để làm nổi bật bản chất tình yêu hy sinh, cứu chuộc của Thiên Chúa được mặc khải trong đoạn Tin Mừng, trong các bài đọc Kinh thánh khác của ngày lễ. Sở dĩ phải đề cao ý nghĩa thần học như thế là vì nhiều giáo dân ngày nay nhận xét: bài giảng của nhiều linh mục hiện nay chưa có chất lượng cao và nhiều khi thiếu “lửa” của Chúa Thánh Thần. Trong bài này chúng tôi chỉ đề cập cách riêng đến bài giảng vì giáo dân VN thích nghe giảng hơn…Các bài viết, bài phát biểu chúng tôi sẽ đề cập tới vào dịp khác… Bài giảng có chất lượng cao là gì? Là bài giảng đáp ứng được, một cách sâu sắc, những yêu cầu căn bản, tiến bộ của đoạn Tin Mừng đó, nghĩa là bài giảng nhất thiết phải được xây dựng trên thần học chứ không phải chỉ trên đạo đức học. Có lẽ nhiều linh mục không ý thức được sự cần thiết tuyệt đối của việc đưa ra ý nghĩa của sự mặc khải của Chúa trong đoạn Tin Mừng, và cứ tưởng rằng giáo dân ngày nay vẫn còn “bình dân” như giáo dân nông thôn ngày xưa, nên thích rút ra từ đoạn Tin Mừng của ngày lễ, một bài học về đạo đức vì nó không cao siêu, nó dễ hiểu, dễ cảm nhận đối với người tín hữu, vì nó sát với thực tế, ít phải suy nghĩ sâu xa. Nhưng giảng như thế sẽ làm cho giáo dân cứ tưởng rằng chỉ cần sống đạo như cha giảng ở nhà thở là đủ rồi, và giáo dân không cảm thấy cần nỗ lực xây dựng đức tin vào Lời Chúa ngày càng sâu xa hơn. Cuộc sống của giáo dân ngày nay đã được toàn cầu hóa, vì thế lòng tin vào Lời Chúa càng phải vững vàng hơn, tiến bộ hơn. Do đó, bài giảng của linh mục phải chú trọng nhiều hơn vào mặc khải của Chúa trong đoạn Tin Mừng đó hơn là vào bài học đạo đức. Mặc khải thì tuyệt đối cần thiết còn đạo đức học thì tương đối, vì mặc khải cho ta hiểu, yêu mến, tuyên xưng, rao giảng Tình Yêu của Chúa một cách sâu sắc, đúng với ý Chúa hơn. Còn đạo đức học chỉ nêu ra nguyên nhân tự nhiên để rút ra bài học thực tế theo khuôn mẫu của sự khôn ngoan tự nhiên. Ví dụ: rất nhiều lần được nghe đoạn Tin Mừng theo Thánh Yoan đoạn 8, câu 1 – 11, nhưng chưa lần nào được nghe giải thích ý nghĩa thần học của nó là gì, mà chỉ nghe ý nghĩa đạo đức của nó; chưa được hiểu ý nghĩa thần học của cái “bẫy” nêu trong đó. Mời các bạn đọc lại đoạn Tin Mừng nêu trên và xin các bạn nhớ lại những bài giảng mà các bạn đã nghe. Riêng tôi, nếu tôi nhớ không nhầm thì thường thường các linh mục chỉ giải thích đoạn Tin Mừng đó chủ yếu xoáy vào bài học đạo đức sau đây: ta không nên kết án (ném đá) ai, vì ai cũng có tội đáng phải kết án (ném đá). Càng là người cao niên thì càng nhiều tội, và càng đáng bị ném đá trước, vì thế họ rút lui trước tiên. Tất cả họ rút lui vì sợ tội lỗi của mình cũng bị phanh phui và sợ bị ném đá. Như vậy, ý nghĩa đạo đức học của câu chuyện này là: chớ kết tội người khác vì sợ mình cũng bị kết tội. Xin nói rõ thêm rằng: không cấm dùng những câu cách ngôn để rút ra bài học đạo đức, về đạo làm người vì Chúa Giê-su đôi khi cũng dùng để nói cho người nghe dễ hiểu : “Chớ xét đoán người khác để khỏi bị xét đoán” (Mt 7: 1 – 5; Lc 6:37-38), nhưng nếu chỉ nêu bài học đạo đức thì rõ ràng là chưa đủ để giáo dân hiểu được bài giảng, hiểu được mặc khải của Chúa và rút ra được cách sống và rao giảng Tin Mừng, vì ý nghĩa đạo dức học thì bình thường, dễ hiểu, vì đạo nào cũng dạy gần như nhau. Khổng Tử cũng đưa ra những bài học về đạo đức tự nhiên của con người, khi nói:”Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”. Sống theo lời dạy của đạo đức học có thể tóm tắt gọn lại như sau: Tôi không làm hại ai, đừng ai làm hại tôi. Nếu ai làm hại tôi thì tôi cũng không tha cho kẻ ấy. Tôi không “ném đá”ai thì đừng ai “ném đá” tôi. Muốn không bị “ném đá” thì đừng “ném đá” người khác.… Trong khi đó ý nghĩa thần học của đoạn Tin Mừng này cao cả hơn gấp bội. Chúa Giê-su tha tội cho người đàn bà tội lỗi này là để mặc khải cho mọi người biết rằng Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình yêu của Thiên Chúa tự bản chất là hy sinh, tha thứ, cứu rỗi, chứ không phải là kết án, nên đã sai Con một xuống thế gian chịu chết ô nhục trên thập giá để cứu chuộc thế gian tội lỗi. Mời xem Mt 9: 13; Lc 5: 31-32.Như thế, bài học thần học của bài giảng này cho chúng ta là: Hãy tha thứ cho kẻ có tội làm mất lòng ta vì Chúa dạy ta như thế, và vì trong cõi lòng thâm sâu của kẻ đó cũng luôn luôn có sự hiện diện tiềm ẩn của Chúa. Ta tha tội cho họ và bảo họ đừng phạm tội nữa, nếu họ nghe theo, thì họ sẽ cảm nhận được dễ dàng sự hiện diện và tình thương của Chúa đang tác động trong nội tâm của họ và tự họ, họ sẽ trở lại với Chúa.… Còn khi giải thích về cái “bẫy” thì cũng phải nêu ra ý nghĩa thần học của nó trong đoạn Tin Mừng. Cái bẫy mà họ giăng ra cho Chúa Giêsu là: nếu Chúa nói không được ném đá người đàn bà này thì họ sẽ bắt ngài, đem Ngài đi giết vì đã chống lại luật Mai sen ; còn nếu Chúa nói phải ném đá người đàn bà này thì Chúa không còn là Đấng nhân hậu nữa (Mt 11: 25-30). Kết luận thần học: cái “bẫy” đó lại trở thành “đòn bẩy” cho Chúa Giêsu mặc khải: Thiên Chúa là Tình Yêu cứu độ. Vậy, bài học thần học từ cái “bẫy” này cho chúng ta là: Trong mọi hoàn cảnh, hãy tha thứ cho tha nhân, đem tha nhân trở về với Chúa, sống trong ơn nghĩa của Chúa, vì trong tâm hồn của tha nhân cũng có Chúa tiềm ẩn. Chúng ta lấy một ví dụ khác: Tin Mừng Gioan 6:1-15; Mat.14:13-21; Mc.6:32-44; Lc.9:10-17 nói về Chúa Giê-su làm phép lạ bánh hóa ra nhiều. Vậy, ý nghĩa thần học của đoạn Tin Mừng này là gì ? Thưa, Thiên Chúa là Tình thương. Chúa thương dân chúng đang đói bánh, đói Lời Chúa, cho họ ăn no nê vì Chúa coi họ là đàn chiên của Chúa. Còn đối với chúng ta, đoạn Tin Mừng đó dạy ta gì? Chúa dạy chúng ta phải thương yêu tha nhân vì tha nhân là hiện thân của Chúa Giê-su. Mời xem Tin Mừng thánh Mát-Thê-ô đoạn 25 câu 31-46. Thần học của đạo Công giáo dạy giáo dân làm phước, tha thứ cho tha nhân vì tha nhân cũng là con cái Chúa như mình, trong tiềm năng (en puissance) hay trong thực tại (en acte) như mình, thì cũng là con cái Chúa. Còn đạo đức học thì dạy cho hết mọi người: ”thương người như thể thương thân” mà thôi, nghĩa là làm phước trên bình diện nhân loại thôi. Mà nếu thế thì người vô thần cũng làm được. Như thế, giải thích Tin Mừng là giải thích ý nghĩa thần học của đoạn Tin Mừng đó, là bày tỏ màu nhiệm mặc khải của Chúa Giêsu. Đó mới là điểm đặc thù của đạo Công giáo. Đạo đức học thì tự nhiên, hay thay đổi theo từng thời đại, từng xã hội, chỉ đòi hỏi thực thi cái tối thiểu, không đòi hỏi cái tích cực tối đa : “đừng làm cái này…đừng làm cái kia…”. Không thể để cho người Công giáo có quan niệm như những người ngoại đạo là: đạo nào cũng thế, cũng dạy người ta ăn ngay ở lành, tu nhân tích đức... Vì đạo Công giáo ngoài việc dạy ăn ngay ở lành, nhất thiết còn phải sống luật yêu thương, hy sinh quên mình cho tha nhân. Không có ông tổ đạo nào dạy tín đồ phải yêu thương cả kẻ thù của mình và chết vì yêu thương để giải thoát cho kẻ đó như Chúa Giêsu. Tình yêu của đạo Công giáo – tự bản chất - là phải hy sinh đến chết cho tha nhân như Chúa Giêsu đã làm. Đó là điểm siêu việt của đạo Công giáo. Linh mục, hơn ai hết, phải sống và chỉ ra cho giáo dân thấy sự vượt trội , và thực thi tình yêu-hy Sinh trong đoạn Tin Mừng đó. Nếu không tìm ra lối sống theo thần học đó, chỉ sống theo đạo đức học không thôi, thì chưa phải là sống đạo Công giáo. Nếu đứng trước sự nghèo khổ đói khát của đồng loại mà không nhận ra là chính Chuá Giê-su đang nghèo khổ đói khát và không cảm thấy đau xót tủi thẹn vì mình chưa giúp gì cho họ và cứ sống phè phỡn thì chưa phải là người Công giáo đích thực. Nếu giáo dân còn đang phải cứu đói lúc giáp hạt mà linh mục vẫn vui vẻ đi “tua”du lịch cao cấp dài ngày ở nước ngoài; nếu giáo dân còn phải đi chân không trên nền đất thô lạnh của nhà thờ chưa có tiền láng xi măng mà linh mục không cảm thấy “chạnh lòng thương”(Mc 6: 34) thì linh mục đó còn phải suy gẫm Lời Chúa rất nhiều mới hy vọng dạy dỗ được giáo dân. Nếu giáo dân không được linh mục chỉ dạy, tập luyện và nêu gương sống đạo theo bản chất mặc khải của Chúa là hy sinh quên mình cho tha nhân, thì giáo dân sẽ sống đạo hời hợt và dễ bỏ đạo. Khi đó, lỗi của giáo dân cũng một phần lớn là do các linh mục vì không làm gương sáng và dạy họ am hiểu tường tận về đạo Chúa. Bài giảng có nhiều “lửa” là gì? Chúng ta đều biết, “lửa” ở đây là “lửa” của Chúa Thánh Thần. Bài giảng có nhiều “lửa” của Chúa Thánh Thần là bài giảng mà trong đó linh mục phải “truyền lửa yêu mến” cho người nghe. Như vậy, linh mục phải có nhiều “lửa” trước để xác tín rồi mới làm cho người nghe xác tín được, nghĩa là linh mục phải làm sao cho giáo dân cảm thấy, trong nội tâm sâu xa của mình, có sức mạnh thiêng liêng thôi thúc mình, một cách mạnh mẽ, để mình tự tích cực tìm ra con đường sống Lời Chúa, tuyên xưng lòng tin của mình vào Lời Chúa và rao giảng Lời Chúa cho tha nhân, để có thể nói với những người còn sống trong tội lỗi như Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng này (Gioan 8: 11) là: ”đi đi…..và từ nay đừng phạm tội nữa”, nghĩa là từ nay phải sống thánh thiện và đi loan truyền về Tình Yêu cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã truyền lửa tình yêu cho người đàn bà tội lỗi sau khi tha thứ cho bà. Như thế, bài giảng có nhiều “lửa” không phải là bài giảng trong đó linh mục dùng tài hùng biện rỗng tuếch (rhétorique) để cường điệu bài học luân lý, đạo đức tự nhiên. Lửa đây càng không phải là sự khoe mẽ văn chương hoa mỹ hay ướt át sáo rỗng để thu hút, mê hoặc người nghe trong chốc lát. Trái lại, bài giảng có nhiều lửa là bài giảng có nhiều sức mạnh của Chúa Thánh Thần thúc dục giáo dân suy gẫm Lời Chúa nhiều hơn và hăng say rao giảng Tin Mừng theo hoàn cảnh sống của mình; còn dùng thủ thuật hùng biện nói thao thao bất tuyệt nhưng rỗng tuếch, tức là không xoáy vào ý nghĩa thần học, thì chỉ làm sướng tai người nghe thôi. Người ta ùn ùn kéo tới nghe, khen lấy khen để linh mục nói hay qúa, nhưng tài hùng biện hoa mỹ đó chẳng làm cho ai tin vào Lời Chúa, suy gẫm Lời Chúa, chẳng thúc dục ai tuyên xưng và rao giảng Lời Chúa. Linh mục phải truyền lửa “tình yêu của Chúa” cho giáo dân nghe giảng, như Chúa Giê-su đã làm cho người đàn bà trong đoạn Tin Mừng thánh Gioan 8:1-11. Đề nghị 2: Xây dựng một nền thần học mục vụ dấn thân mang tính văn hóa Việt. Tôi thấy rất cần đưa ra đề nghị sau đây: đừng dạy một thứ thần học lỗi thời, chung chung hay quá xa lạ với văn hóa Việt. Chúng ta chỉ lấy những nét chính của thần học Kitô giáo làm nền tảng để từ đó thiết kế một chương trình học cho môn thần học mục vụ dấn thân có tương quan mật thiết với nền văn hóa Việt. Vì như thế, Tin Mừng mới ngày càng phát triển, càng có chỗ đứng vững chắc và sâu sắc trong tâm hồn người Công giáo VN, và tâm hồn những người thiện chí và có cảm tình với đạo. Chỉ có bằng con đường văn hóa Việt chúng ta mới có thể phát huy đức tin vào Lời Chúa ngày càng sâu sắc hơn. Vì thế, đề nghị những linh mục đi du học ở các nước châu Âu, châu Mỹ về không được “bứng” nguyên si nét văn minh, cách sống, cách ăn nói, cách giảng trong lễ, nền thần học, triết học của họ áp dụng vào nền văn minh của ta mà không có chọn lọc uyển chuyển, khôn ngoan vì hai nền văn minh đó rất khác với chúng ta. Chẳng hạn không dùng những câu cách ngôn, tục ngữ Âu-Mỹ dịch ra tiếng Việt để phát biểu vì chúng ta có cả một kho tàng ca dao tục ngữ. Hơn nữa, cách ăn nói của Âu-Mỹ là cách ăn to nói lớn, nói thẳng, không kiêng nể ai, cứ như cãi nhau. Đó là chưa kể còn có thể dịch sai nữa. Làm như thế là mất gốc, mất cảm tình, mọi người sẽ dần dần xa lánh mình.Cách nói của VN là cách diễn đạt dịu dàng, từ tốn, ngọt ngào… Thần học mục vụ dấn thân (théologie pastorale engagée) có nhiệm vụ không ngừng tìm mọi cách in dấu ấn của Lời Chúa vào những cơ cấu kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam và vào những nét đặc thù của đời sống trí thức, nghệ thuật, tôn giáo của người Việt Nam ngày nay. Những tác phẩm của Hoàng Sĩ Quý, Kim Định, và nhiều tác giả nổi tiếng khác, có thể bước đầu làm tài liệu cho chúng ta tham khảo để từ đó thiết lập một chương trình giảng dạy thần học ở Đại chủng viện. Phương pháp giảng dạy môn thần học này cũng phải thay đổi cho phù hợp với xu hướng của thời đại hiện nay. Phương pháp truyền thống là đọc – chép. Thầy đọc – trò chép, thầy giảng – trò nghe. Thầy là chính, trò là phụ. Phương pháp giáo dục mới không đặt trọng tâm nơi thầy mà nơi trò. Chủng sinh mới là người có vai trò chủ động. Thầy chỉ đưa ra một tổng hợp nội dung (synthèse de base théologique) của môn học, cung cấp thư mục (bibliographie), ví dụ môn Kitô học (Christologie).Từ đó chủng sinh của đại chủng viện phải chủ động học tập, nghiên cứu theo nhóm, có sử dụng Internet và trình bày bài nghiên cứu trước lớp bằng LCD. Vì như vậy mới cụ thể, sống động, sâu sắc hơn, dễ hiểu, dễ nhớ và có tính toàn cầu hơn. Nói tóm lại, chúng ta phải đổi mới, thiết kế lại chương trình và phương pháp dạy và học vì chúng quá xưa rồi. Đổi mới như thế là một công trình lớn đòi hỏi nhiều công sức, thời gian và tiền của, nhưng nếu ta không từng bước thực hiện thì sẽ không bao giờ có một nền thần học mục vụ dấn thân đậm nét văn hóa dân tộc là lý tưởng của thời đại chúng ta. Đề nghị 3: Xây dựng môn học mới: Giáo dân học, và soạn thảo lại môn Lịch sử giáo hội công giáo Việt Nam. Trong chương trình đào tạo linh mục, tôi thiết nghĩ đã đến lúc chúng ta phải cắt bớt, rút ngắn hay cô đọng hóa môn Triết học cổ điển của Platon, Aristote, và môn thần học của Saint Thomas d’Aquin (thế kỷ 13) để xây dựng môn học mới có ích lợi hơn nhiều, đó là môn Giáo dân học và soạn thảo lại môn Lịch sử giáo hội công giáo Việt Nam. Lý do thì rất dễ hiểu: Linh mục là những người “quản lý” giáo dân, mà đã là người “quản lý” thì phải biết rành rẽ và có hệ thống những gì thuộc về giáo dân mới có thể giúp giáo dân sống Đạo, loan báo Tin Mừng ngày càng tốt hơn. Giáo dân mỗi nước thì có những đặc điểm văn hóa riêng, vì thế phải soạn thảo một chương trình mang tính ưu việt riêng của dân tộc VN. Chúng ta hãy bắt đầu bằng đúc kết những kiến thức về giáo dân từ xưa đến nay, ở các nước trên thế giới, từ Cựu Ước đến Tân Ước cho tới ngày nay, đặc biệt là giáo dân VN. Sau đó, chúng ta hãy biến chương trình học cũ kỹ ở Đại chủng viện thành chương trình có dấu ấn thần học-triết học tiên tiến của thời đại toàn cầu hóa đầy văn minh và tiến bộ của nhân loại. Trong chương trình học đó phải thêm môn học mới: môn giáo dân học. Chúng ta chọn ra những điểm ưu việt của môn lịch sử giáo dân (giáo dân học) trong cựu ước và tân ước, đồng thời phải can đảm loại trừ những trí thức, những phán quyết lạc hậu, lỗi thời, chậm tiến, phản tiến bộ của chương trình đào tạo cũ để thiết lập một chương trình mới vừa phù hợp với Tin Mừng, với Giáo Hội Công giáo La Mã, và được Hội Đồng Giám Mục VN. chấp thuận, vừa mang tính tiến bộ để phục vụ tối đa lợi ích của hàng giáo dân VN., cải tạo thiên nhiên để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, tạo hạnh phúc cho cá nhân người giáo dân, cho gia đình, cho xã hội và giáo hội VN. ngày nay. Môn giáo dân học phải được xây dựng trên nền tảng thần học - kinh thánh theo chiều hướng mục vụ, dấn thân, tiến bộ, đậm nét văn hóa dân tộc Việt hiện đại. Như vậy mới giả quyết được những vướng mắc do lịch sử giáo hội để lại về luân lý hôn nhân, về đạo đức gia đình, kế hoạch hóa gia đình, về vấn đề được dùng hay không được dùng thuốc ngừa thai…vân vân….Những vấn đề đó sẽ giải quyết được dễ dàng, thỏa đáng nếu chúng ta theo quan điểm thần học kinh thánh mới coi giáo dân là chính. Vấn đề này sẽ được bàn sâu rộng ở phần sau: Giáo dân là điểm tựa cho linh mục.… Mọi vấn đề ngày nay đều khác xa với ngày xưa, nếu chúng ta không chịu cải tiến tư duy, thay đổi lập trường, nếu cứ sợ cái tiến bộ, nếu cứ khư khư giữ lấy cái lạc hậu, lỗi thời…thì sẽ dễ dẫn đến sai lầm, tội ác… Ngoài ra, chúng ta cũng nên sớm mau chóng thay thế vị trí của một số thánh ngoại xa xôi bằng những vị thánh người Việt đáng yêu và gần gũi hơn. Đó là điều rất hợp với tôn chỉ của Công Đồng Vatican II. Mời coi: “Optatam totius Ecclesiae renovationem” (La formation des prêtres) đoạn 1 –std, trang 448. Còn về môn Lịch sử giáo hội công giáo VN., chúng ta cũng phải rà soát lại xem có những gì phải sửa đổi cho phù hợp với thực tế, với sự thật, với lịch sử VN thời xưa cũng thời nay, như những tương quan giữa giáo hội với các chế độ chính trị, các tôn giáo bạn, vv…để đạo của chúng ta có thể sống chung hòa bình và phát triển bền vững giữa lòng dân tộc VN… Có lẽ sẽ có người nói rằng chúng ta làm gì có đủ “cha giáo” chuyên viên về Triết học - thần học để tiến hành việc canh tân cải cách chương trình đó cho đại chủng viện! Xin thưa, nếu được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, hoặc đấng có bản quyền kêu gọi thì giáo dân Việt Nam ở trong và ngoài nước sẽ rất sẵn sàng đóng góp tài năng, tiền bạc, thời giờ của mình để cùng với các linh mục xây dựng và trình lên HĐGMVN một chương trình Triết-Thần học hoàn hảo hơn, hợp với thời đại toàn cầu hóa hơn cho việc giáo dục ở đại chủng viện tại Việt Nam ngày nay. |
Nguồn : gxnl |
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: SỐNG ĐỜI SỐNG THIÊN CHÚA (14/06/2025) .: BA BỘ MẶT (14/06/2025) .: BA NGÔI Ý NGHĨA (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU (14/06/2025) .: SỐNG MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM MỘT CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: HAI GIỜ TRONG MƯA (14/06/2025) .: GIA ĐÌNH KITÔ HỮU HIỆP THÔNG NÊN MỘT (14/06/2025) .: TÌNH YÊU KỲ DIỆU (14/06/2025) .: THIÊN CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU (14/06/2025) .: TOÀN BỘ SỰ THẬT (14/06/2025) .: GIẢNG LỄ CHÚA THÁNH THẦN (07/06/2025) .: CHÚA THÁNH THẦN ĐẤNG THÔNG BAN MỌI SỰ (07/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
Nối kết
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam