Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 61

Tổng truy cập: 1427203

Đức Giêsu trong Tin mừng

TIN MỪNG (Mc 5: 21-43)
Thánh Mác-cô tường thuật cho chúng ta trong cùng một câu chuyện hai phép lạ của Đức Giê-su: phép lạ chữa lành bệnh tật và phép lạ phục sinh kẻ chết. Hai phép lạ được thực hiện một cách kín đáo; phép lạ chữa lành bệnh xuất huyết bất trị của một phụ nữ không thể kiểm chứng được; phép lạ cho một bé gái sống lại chỉ có vài nhân chứng và với lệnh truyền không được để cho ai biết chuyện nầy.
Việc đan kết hai biến cố vào trong cùng một câu chuyện cũng được gặp thấy tại Mt 9: 18-26 và tại Lc 8: 40-56; nhưng câu chuyện của Mác-cô có nhiều tình tiết sinh động nhất. Chúng ta dể dàng nhận thấy ở đây diễn tiến và ý nghĩa của những sự kiện. Đức Giê-su không vội vàng đến nhà ông trưởng hội đường; thời gian trôi qua giữa Đức Giê-su và người phụ nữ mắc bệnh xuất huyết, vì thế đứa bé chết. Cũng vậy, Đức Giê-su không vội vã ra đi khi nghe tin anh La-da-rô đau nặng; Ngài đến sau khi bạn Ngài đã qua đời bốn ngày rồi. Như vậy, trong câu chuyện nầy, Chúa Giê-su có một dấu hiệu khác để loan báo hơn là dấu hiệu chữa lành bệnh tật: Ngài có quyền trên cả sự chết.
1. Bối cảnh và các nhân vật.
Đức Giê-su đã ở vùng đất của dân Ghê-ra-sa, vùng đất dân ngoại, ở đó Ngài đã chữa lành một người bị quỷ ám nguy hiểm; dân làng sợ hãi xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Vì thế, Ngài xuống thuyền, trở sang bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất Ít-ra-en. Tức khắc “một đám rất đông tụ lại chung quanh Ngài”.
Đây là nét tiêu biểu của thánh Mác-cô, ông thích ghi lại những chuyển động của dân chúng: “đám đông tuôn đến với Ngài”, “họ đến với Ngài”, “họ đi theo và chen lấn Ngài”, “họ thích thú lắng nghe Ngài” vân vân.
Và nầy, một viên trưởng hội đường rẻ đám đông đến gặp Ngài. Viên chức sắc Do thái nầy bày tỏ lòng kính trọng và niềm tin tưởng vào Đức Giê-su: phủ phục dưới chân Ngài và khẩn thiết nài xin Ngài đến cứu giúp đứa con gái thập tử nhất sinh của ông. Phải nói rằng bản văn của Mác-cô có nhiều sắc thái sinh động hơn bản văn của Mát-thêu và Lu-ca. Viên trưởng hội đường nói lên ước nguyện của mình: “Xin Ngài đến đặt tay trên cháu”. Ông đã chứng kiến nhiều lần Đức Giê-su chữa lành bệnh tật bằng cách đặt tay. Đáp lại niềm tin tưởng đầy cảm động của ông, Đức Giê-su liền ra đi với ông. Nhưng trên đường đi, trong đoàn người chen chúc nầy, xuất hiện một người phụ nữ mắc bệnh băng huyết từ mười hai năm rồi vẫn vô phương cứu chữa.
2. Chúa Giê-su với người phụ nữ mắc bệnh nan y.
Thánh Mác-cô thường giữ cung giọng trực tiếp và bình dân cho câu chuyện của mình: “Có một người phụ nữ kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều lần đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác”. Thánh Lu-ca, thầy thuốc, sẽ giữ chừng mực hơn trong ngôn từ của mình: “Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, không ai có thể chữa được” (Lc 8: 43).
Theo luật Do thái, bệnh tình của bà là trường hợp nghiêm trọng về luật thanh sạch, vì máu là điều cấm kỵ. Vì thế, tuyệt đối cấm không ai được đụng chạm đến bà để khỏi làm cho mình ra ô uế (Lv 15: 19-30). Vì thế, bà lẫn mình vào trong đám đông để không ai nhận ra và rón rén tiến lại phía sau Ngài vì bà không thể công khai cầu xin Ngài chữa bà. Bà hy vọng mình được chữa lành một cách vụng trộm. Cử chỉ của bà thật khiêm tốn: không tìm kiếm bất cứ điều gì ngoài niềm mong ước chỉ đụng được áo Người, với trọn niềm tin tưởng của bà: “Tôi mà sờ được áo Người thôi, là sẽ được cứu”.
“Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”. Đừng hiểu những từ ngữ nầy theo mặt chữ. Đức Giê-su biết người phụ nữ nầy là ai và bà đang nghĩ gì trong lòng. Thánh Mác-cô đề cao quyền năng của Đức Giê-su, được xem như một loại năng lực có thể phát huy tác động một cách riêng biệt và hầu như độc lập, ông diễn tả theo quan niệm dân gian về các thầy thuốc vào thời đó. Chúng ta không gặp thấy một tư tưởng như thế tại thánh Mát-thêu: trong câu chuyện của mình, Đức Giê-su liền quay lại thấy bà, và nói với bà mà không cần chờ đợi lời giải thích của bà: “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mt 8: 22).
Trái lại. thánh Lu-ca bày tỏ cùng một cách thức như thánh Mác-cô. Nhiều lần thánh Lu-ca viết: “Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người” (Lc 6: 19). Trong câu chuyện nầy, thánh Lu-ca diễn tả như thánh Mác-cô: “Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra” (Lc 8: 47).
Những ghi nhận của Mác-cô và Lu-ca nầy đã làm tốn không biết bao giấy mực; thậm chí người ta tự hỏi phải chăng chúng phát xuất từ cách thức của các sách tin mừng ngụy thư. Đối với cử chỉ của người phụ nữ còn thúc đẩy các nhà chú giải đề nghị biết bao lời giải thích. Calvin phát hiện ở nơi cử chỉ của người phụ nữ nầy thái độ tương tự thái độ tôn thờ các thánh tích mà ông kết án. Theo cùng một tinh thần, các nhà phê bình khác so sánh câu chuyện nầy với các câu chuyện được tường thuật trong sách Công Vụ: bệnh nhân được chữa lành nhờ khăn và áo đã chạm đến da thịt của thánh Phao-lô (Cv 19: 11) hay nhờ cái bóng của thánh Phê-rô chạm đến (Cv 5: 15).
Vấn đề vẫn luôn luôn được đặt ra. Tất cả việc chữa lành nhờ đụng chạm đến thánh tích nào đó được định vị trên một đỉnh núi nguy hiểm mà triền dóc nầy là lòng mộ đạo hay triền dóc kia là mê tín dị đoan.
Tuy nhiên, chúng ta phải cẩn trọng khi đọc bản văn Tin Mừng; bài học rất sáng tỏ. Rõ ràng Đức Giê-su giúp người phụ nữ hiểu: bà không được chữa lành vì bà đã chạm đến áo của Ngài nhưng vì bà đã có niềm tin: “Nầy bà, đức tin của bà đã chữa bà”. Quả thật, trong đám đông chen chúc quanh Ngài, không thiếu những người đã chạm đến áo của Ngài nhưng không nhận được bất cứ ân ban nào. Nguồn ân sủng của Đức Giê-su là thái độ sẳn sàng bên trong.
Cũng xảy ra như vậy đối với việc phục sinh con gái của viên trưởng hội đường: sự phục sinh của cô bé là lời đáp trả của Đức Giê-su cho đức tin của người cha.
3. Đức Giê-su với viên trưởng hội đường.
“Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?”. Đó là sứ điệp của người nhà viên trưởng hội đường. Đối với họ, quyền năng của Đức Giê-su cũng chỉ là quyền năng chiến thắng bệnh tật. Chắc chắn viên trưởng hội đường cũng đồng quan điểm với họ. Nghe thế, Đức Giê-su nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Nếu chúng ta muốn nắm bắt nét nghĩa của động từ được Mác-cô dùng ở đây, phải dịch: “Hãy kiên vững trong đức tin của ông”. Trong khi bản văn Lu-ca dùng động từ ở thể truyền lệnh aoriste, có nghĩa: “Hãy thể hiện một hành vi đức tin”, thì bản văn Mác-cô dùng động từ ở thể truyền lệnh hiện tại, điều đó muốn nói rằng ông trưởng hội đường có đức tin rồi và ông phải tiếp tục tin. Như vậy, Ngài mở cho người cha đau khổ nầy một con đường hy vọng. Vì thế, ông không ngăn cản Đức Giê-su nhưng để Ngài vào nhà ông.
Chúng ta sẽ tham dự vào một hoạt cảnh tương tự ở Bê-ta-ni trong câu chuyện phục sinh La-da-rô, em trai của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a. Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày” (Ga 11: 39). Đức Giê-su trả lời bằng cách đòi hỏi chị phải tin vào Ngài: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11: 40).
“Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. Ngài cũng sẽ nói với các môn đề về La-da-rô một cách như vậy: “La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11: 11). Đây không là một hình ảnh, như chúng ta gặp thấy nhiều lần trong văn chương kinh thánh cũng như ngoài kinh thánh, nhưng là một sự khẳng định mang tính mặc khải: cái chết chỉ là một giấc ngủ mở ra sự sống. Tất cả chi tiết của hoạt cảnh đều đi theo chiều hướng nầy.
Sau khi vào nhà của viên trưởng hội đường, Đức Giê-su truyền lệnh cho mọi người ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ và ba người môn đệ cùng đi với Ngài vào nơi đứa bé đang nằm. Đức Giê-su cầm lấy tay đứa bé và nói: “Ta-li-tha-kum”: “Ta-li-tha” (“cô bé”) – “kum” (“hãy chỗi dậy”). Mác-cô đã gìn giữ những từ A-ram trong bản văn của mình. Toàn bộ câu chuyện của ông bày tỏ nhiều chi tiết sống động của một chứng nhân mắt thấy tai nghe mà thánh ký nhận được từ nguồn của mình hay từ những kỷ niệm của thánh Phê-rô mà ông chuyển tải, ví dụ như câu trả lời của các môn đệ: “Thầy coi, dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi là ai đụng vào Thầy, thánh ký đã xây dựng thành ngôn ngữ nói: “Thầy coi, dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ‘Ai đụng vào tôi?’.
“Hỡi cô bé, hãy chỗi dậy”, động từ “chỗi dậy” sẽ trở thành thuật ngữ để chỉ biến cố Phục Sinh. Cô bé liền chỗi dậy và đi lại được. Đức Giê-su bảo họ cho đứa bé ăn. Lời dặn dò nầy có một mục đích tức thời, nhằm cho cha mẹ của cô bé hiểu rằng cô bé thật sự sống lại chứ không là một bóng ma. Cũng vậy, sau khi sống lại, Đức Giê-su cũng hỏi các môn đệ còn nghi nan ngờ vực: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24: 41). Tuy nhiên, lời dặn dò nầy còn mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, cử chỉ nầy mang tính biểu tượng và ngôn sứ: việc chỗi dậy bên kia cái chết mở ra những thực tại thần thiêng mà các ngôn sứ đã diễn tả bằng những hình ảnh về bàn tiệc Thiên Chúa: bữa ăn cánh chung.
“Cô bé đã mười hai tuổi”. Con số “mười hai” cũng có giá trị dấu chỉ: con số của sự tuyển chọn. Thánh Mác-cô đã dùng con số nầy rồi đối với người phụ nữ mắc bệnh băng huyết đã “mười hai” năm. Trong sách Khải Huyền, con số người được tuyển chọn là “một trăm bốn mươi bốn ngàn” người, tức là gấp ngàn lần của 12 x 12 (Kh 7: 4). Mười hai tông đồ, nối nghiệp mười hai chi tộc Ít-ra-en, là dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa.
4. Những chứng nhân:
Ngoài cha mẹ của đứa bé ra, những nhân chứng về cuộc phục sinh bé gái là ba Tông Đồ, Phê-rô, Gia-cô-bê, và Gioan. Chính ba vị Tông Đồ nầy được Đức Giê-su sẽ dẫn lên núi để làm chứng cuộc Biến Hình của Ngài.
Trong khi “các ông kinh hoàng ngã sấp mình xuống đất, Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ” (Mt 17: 7). Cũng là cử chỉ và lời nói mà Ngài đã làm và nói với con gái của viên trưởng hội đường. Có một mối liên hệ giữa biến cố phục sinh và biến cố biến hình; đây là hai khía cạnh bất khả phân sau cái chết.

Lm. Ignatiô Hồ Thông

home Mục lục Lưu trữ