Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 24

Tổng truy cập: 1343741

Tôma đa nghi

Tôma đa nghi – Flor McCarthy
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Bài giảng 2: Học hỏi từ Tôma
Thật dễ sai lầm khi cho rằng những ai đã nhìn thấy Đức Giêsu, thì dễ có lòng tin hơn so
với chúng ta. Tin Mừng chứng tỏ rằng có nhiều người đã được nhìn thấy Đức Giêsu,

nhưng vẫn không có lòng tin nơi Người. Nhìn thấy không nhất thiết là tin. Động tác tin
tưởng lôi kéo theo một quyết định tin tưởng.
Trên thực tế, Tin Mừng còn cho thấy rằng ngay cả các Tông đồ mà còn có vấn đề về lòng
tin. Tôma không phải là người Tông đồ duy nhất nghi ngờ về sự sống lại. Tất cả các Tông
đồ đều như vậy cả. Thánh Maccô kể cho chúng ta nghe rằng khi Đức Giêsu hiện ra với họ
vào buổi tối Phục sinh, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông
không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người chỗi dậy”. (Mc 16: 14).
Chúng ta có thể thông cảm cho các Tông đồ. Cảnh Đức Giêsu bị đóng đinh đã làm cho họ
bị tuyệt vọng. Họ đã dành cho Đức Giêsu một tầm quan trọng lớn lao. Họ đã bỏ hết công
việc của mình, và để lại mọi sự để đi theo Người. Thế mà Người lại đột ngột ra đi. Càng
nghe nói thật về cái chết của Người, thì sự mất mát của họ càng trở nên lớn lao hơn. Giá trị
và ý nghĩa của tất cả mọi sự đều bị đe doạ: tình bạn đồng hành, lòng tin và toàn bộ cuộc
sống của họ.
Và rồi một điều không thể tin nổi đã xảy ra – một lần nữa, Người lại đứng giữa họ. Việc
đầu tiên mà Người làm, là chỉ cho các ông nhìn thấy những vết thương của Người. Tại sao
Người lại làm như vậy? Trước hết, bởi và những vết thương này giúp cho các ông nhận ra
Người chính là Đấng đã bị đóng đinh. Thứ hai, những vết thương này là bằng chứng tình
yêu của Người đối với họ. Tình yêu phải được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể. Sau
đó, Người còn mời gọi các ông “nhìn xem và sờ tay vào”.
Trường hợp của Tôma đặc biệt soi sáng chúng ta. Ông đã chứng tỏ một sự chân thành thật
thú vị. Ông không hề cố gắng che đậy những nghi ngờ của mình. Người ta thường nhìn sự
hoài nghi như là một dấu hiệu của sự yếu đuối. Chúng ta thường hay mang mặc cảm tội
lỗi, vì đã có những hoài nghi. Nhưng hoài nghi có thể là một điểm nói lên sự đang phát
triển, là một hòn đá bước lên để đi vào sự hiểu biết sâu xa hơn. Đây là điều chắc chắn đối
với Tôma, bởi vì trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, ông đã tiến tới việc diễn tả lời tuyên
xưng cao cả nhất về lòng tin nơi Đức Giêsu: “Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con”.
Ở nơi đây, trên trái đất này, người ta không thể tuyệt đối biết chắc chắn về những điều
thiêng liêng. Nếu biết chắc chắn, thì không còn cần đến lòng tin nữa. Sự tuyệt đối chắc
chắn có thể đưa đến thói kiêu ngạo, không khoan dung và sự ngu xuẩn. “Kẻ tin nào không
bao giờ tỏ ra hoài nghi, thì không phải là kẻ tin nữa” (Thomas Merton).
Một cộng đoàn đều có thể rút được kinh nghiệm từ một nhân vật như Tôma, nghĩa là một
người có can đảm đặt ra những câu hỏi mà không một người nào khác dám hỏi. Đó là
người chân thành, người như vậy cũng giúp cho những người khác giữ được chân thành.
Họ làm cho những kẻ tin tức giận, khi bày tỏ sự mỏng dòn nơi lòng tin của họ; họ làm cho
những kẻ hoài nghi tức giận, khi làm cho những người này cảm thấy sự dằn vặt của nỗi
trống rỗng trong tâm hồn.
Sau khi chế ngự được khủng hoảng lòng tin của mình, Thánh Tôma đã tiếp tục can đảm
làm chứng cho Đức Giêsu, và trở thành một trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất của
Giáo Hội tiên khởi. Theo truyền thống, ngài đưa Tin Mừng tới tận Ba Tư, Syria và Ấn Độ,
là nơi ngài chịu tử đạo. Thánh Tôma là người Tông đồ đầu tiên chịu chết vì đức tin.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta tiếp cận với Người trong lòng tin, và nhìn vào những vết
thương của Người. Mặc dù chúng ta không được đụng chạm vào Người về mặt thể lý,
nhưng chúng ta vẫn có thể tiến lại gần Người về mặt thiêng liêng. Và chúng ta cũng được
kêu gọi mang lời chứng đến cho những người khác. Công việc của Chúng ta là làm cho
Đức Giêsu trở thành “nhìn thấy được” trên thế giới. Các môn đệ đầu tiên đã làm theo cách
này. Một khi đã được nhìn thấy Đức Kitô, họ cảm thấy bắt buộc phải làm cho người khác
nhận biết người.

Thế giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài nghi và không tin tưởng. Cách thức duy nhất
khiến cho họ được biến đổi trong lòng tin, đó là làm như thể họ “nhìn thấy” Đức Giêsu và
“đụng chạm” vào Người thông qua những kẻ đi theo Người. Nhưng kẻ đi theo Người lại
không hề có vết thương tình yêu để bày tỏ ra cho họ, vì thế, chưa chắc có thể thuyết phục
được những kẻ không tin.
Xin cho chúng ta xứng đáng được kể và số những người mà Đức Giêsu chúc phúc, nghĩa
là “những kẻ không thấy mà tin”
Bài giảng 3: trào lưu chính thống
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, và
không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Tôma đang tìm kiếm sự tuyệt
đối chắc chắn. Chúng ta có thể gọi ông là một người theo trào lưu chính thống. Đối với
người theo trào lưu chính thống, vấn đề chỉ là trắng hoặc đen. Nếu có một điều gì đó chưa
đích thực theo sát nguyên văn, thì đúng là điều đó không hề có thật.
Ngày nay, trào lưu chính thống đang trên đà gia tăng. Vì sự thiếu chắc chắn gây ra nỗi e
ngại, nên họ có rút lại vào trào lưu chính thống. Trào lưu này có thể rất hấp dẫn. Đối với
người theo trào lưu chính thống, đường lối phải thẳng tắp, câu trả lời phải đơn giản.
Nhưng trào lưu chính thống là một cách thức nghèo nàn trong việc nhìn nhận chân lý.
Điều này tước đoạt mất sự phong phú của lòng tin, hậu quả là đưa đến một thứ tôn giáo
cứng rắn, đơn giản, thuần theo luân lý và độc đoán. Điều này làm cho người ta biến thành
một đám người chỉ đi theo đúng một đường lối, hơn là một nhóm người bao gồm những cá
nhân, mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình để kể ra, và một đường lối đặc biệt
riêng để đi theo.
Sau đây là một câu chuyện ngụ ngôn: có hai người đi đường tự nhận thấy mình đang giáp
mặt với một cánh rừng. Bởi vì chung quanh đó không còn một con đường nào, nên họ
không còn chọn lựa nào khác, ngoài cách phải băng qua cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm
thấy khiếp sợ, họ e ngại rằng mình có thể bị lạc lối trong rừng. Nhưng họ thật may mắn
khi gặp được một người gác rừng, người này đã cho họ một bản đồ vạch ra những con
đường mòn đi xuyên qua rừng.
Sau khi xem xét tấm bản đồ, thì người thứ nhất phát hiện được một con đường mòn dường
như có vẻ đi thẳng trực tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết đi theo con đường mòn đó. Khi
làm như vậy, anh đã tìm kiếm được nhiều thì giờ, lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta
cũng tự làm cho mình mất đi cơ hội khám phá được vẻ phong phú cả khu rừng.
Người thứ hai nghiên cứu từng chi tiết của tấm bản đồ một cách cẩn thận. Anh đã ghi
nhận rằng những con đường mòn chính không chỉ xuyên suốt được khu rừng, mà còn là
những lối đi ngắn hơn nhiều. Đối với anh, không nhất thiết là phải tuyệt đối theo sát tấm
bản đồ, nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này là nhằm cung cấp cho anh những
phương hướng, đế mặc dù đang ở bất cứ chỗ nào trong rừng, anh cũng sẽ không bị lạc lối.
Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là mở ra cho anh toàn thể khu rừng, và giúp cho anh
phát hiện được tất cả vẻ phong phú sẵn có của nó.
Khu rừng tiêu biểu cho thế giới của chân lý. Tấm bản đồ tiêu biểu cho đức tin của người
Kitô hữu. Những con đường mòn tiêu biểu cho các học thuyết về đức tin.
Người thứ nhất tiêu biểu cho loại người theo trào lưu chính thống. Anh ta suy nghĩ về các
học thuyết đức tin theo một cách thế hẹp hòi, theo sát từng chữ và dường như không liên
quan gì đến những gì còn lại của cuộc sống. Người thứ hai đã sử dụng cũng những chân lý
đó để cung cấp cho anh những phương hướng. Bằng cách này, những chân lý đó mở ra tất
cả cho anh. Chúng giúp anh có thể tự đắm mình vào cuộc sống, với tất cả những nét phong

phú đa dạng và tuyệt vời của nó. Chúng đem đến cho anh một chiếc chìa khoá, để giải mã
mầu nhiệm của cuộc sống.
Đức tin của người theo trào lưu chính thống tạo ra một đường lối an toàn. Đức tin này bảo
về người đó khỏi phải làm một công việc khó nhọc, đó là đi tìm kiếm ý nghĩa và những giá
trị của bản thân mình. Nó giảm bớt cho người đó khỏi nỗi lo lắng phải đương đầu với sự
chọn lựa, với trách nhiệm, và sự thay đổi liên tục trong ý thức về bản thân mình. Trào lưu
chính thống là một đức tin đã được xác nhận bằng sự thiếu tự tin.
Đối với một người theo trào lưu chính thống, tôn giáo chỉ là một phần của cuộc sống. Còn
đối với người không đi theo trào lưu chính thống, tôn giáo chính là cuộc sống được nhìn
và sống theo viễn cảnh tôn giáo. Mỗi sự kiện đều được tiếp nhận gấp đôi, nếu không muốn
nói là gấp ba lần ý nghĩa, và do đó, từng sự kiện lại được phong phú hơn và bí nhiệm hơn.
Đức tin lấp đầy cuộc sống của chúng ta bằng những sự kiện mà, nếu không có chúng, thì
cuộc sống của chúng ta sẽ không có ý nghĩa, và linh hồn của chúng ta sẽ bị khô héo và
chết đi.
Đức Giêsu không cổ vũ cho trào lưu chính thống. Người không muốn những kẻ đi theo
Người cách mù quáng. Trái lại, Người đã cố gắng mở mắt mọi người, mà không hề đe doạ
hoặc ép buộc ai cả, Người chỉ mời gọi, mong muốn người ta tự nguyện đi theo Người,
bằng tất cả sự sáng suốt của họ. Và Người còn đi đến chỗ mong muốn chúng ta có thể có
được sự sống, không chỉ ở cuộc sống mai sau, mà còn ở nơi đây, trên trái đất này nữa, để
có được một cuộc sống dồi dào.
Tiếp Cận Khác: Khủng hoảng đức tin
Tông đồ Tôma đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin. Nhiều người cũng đang khủng
hoảng đức tin. Tolstoy là một con người mẫu mực, ngoại trừ cuộc sống của ông cũng đang
bị một cơn khủng hoảng về mặt ý nghĩa.
Năm 1879, ông được 51 tuổi. Ông có lý do để mãn nguyện với chính mình. Ông đã hoàn
thành hai cuốn tiểu thuyết, Chiến tranh và Hoà bình và Anna Karenina. Nếu ông không
viết một tác phẩm nào khác nữa, thì hai cuốn tiểu thuyết này đủ đảm bảo cho ông có một
vị trí xứng đáng trong cuốn sử biên niên của nền văn học thế giới. Văn phong của hai cuốn
sách này đã giúp cho ông có thể diễn tả được tính cách vĩ đại và khả năng sáng tạo của
ông. Đáng lẽ ông rất hạnh phúc. Tuy nhiên, ông lại cảm thấy đau khổ. Ông cảm thấy cuộc
sống của mình không có ý nghĩa. Có một câu hỏi cứ lảng vảng trong ông: “Liệu có bất cứ
ý nghĩa nào trong cuộc sống của tôi sẽ không bị cái chết huỷ hoại đi chăng?”.
Đối với ông, đây là một thời kỳ nguy hiểm và đau đớn –ông đã từng dự tính tự tử. Ông tìm
kiếm một lời giải đáp cho những câu hỏi của ông trong từng lãnh vực của kiến thức nhân
loại. Ông cứ kiên nhẫn tìm kiếm, cả ngày lẫn đêm, giống như một người đang giãy chết
tìm cách để được cứu thoát. Nhưng ông vẫn không hề tìm thấy gì cả.
Thế rồi ông quay trở lại với niềm tin của các Kitô hữu. Ông đã từng được nuôi dưỡng
trong lòng tin, nhưng ông đã từ bỏ đức tin đó từ lâu rồi. Ông cảm thấy khó chịu đối với
niềm tin này, và coi đó như là thứ vô nghĩa lý trên môi miệng của những kẻ có cuộc sống
trái ngược hẳn với cuộc sống của ông. Nhưng khi nhìn vào những con người sống bằng
niềm tin, thì cũng chính niềm tin này lại lôi cuốn ông và dường như gây cho ông sự xúc
động.
Từ đó, ông được lôi kéo quay trở lại với niềm tin này và ông đã nhận ra được ý nghĩa của
niềm tin. Ông nói:
“Tôi đã từng suy nghĩ rằng trong cuộc sống, không hề có chân lý chắc chắn. Nhưng rồi tội
đã tìm thấy một nguồn ánh sáng đó từ trong Tin Mừng, và nét rạng ngời của ánh sáng đó
đã làm ngây ngất cõi lòng tôi. Trong những lời giảng dạy của Đức Giêsu, tôi nhận ra rằng

đó là một học thuyết tinh tuyền nhất và đầy đủ nhất trong cuộc đời. Từ 2000 năm nay, lời
rao giảng cao cả và quý giá của Đức Giêsu đã tạo ra một ảnh hưởng trên con người, theo
cách thức mà không có bất cứ người nào khác có thể tạo ra được. Một ánh sáng đã chiếu
toả trên con người tôi và chung quanh tôi, và kể từ đó, ánh sáng này không bỏ rơi tôi
nữa”.
Một số người đã được đưa ra vào lòng tin tôn giáo ngay từ lúc mới sinh, và theo năm
tháng, họ nhận thấy lòng tin này càng ngày càng mạnh mẽ và vẫn được duy trì. Khi có
được lòng tin như vậy, thì đó là một ơn phúc lớn lao. Nhưng đối với những người khác,
lòng tin là một cuộc đấu tranh liên lỉ. Thật vậy, có thể một số người đã phải trải qua một
cơn khủng hoảng, rồi mới đến được một lòng tin sâu xa và mang tính cách cá nhân.
Chỉ có lòng tin mới có thể trả lời cho những câu hỏi sâu xa nhất và quan trọng nhất trong
cuộc đời. Nhưng chúng ta không được mong đợi lòng tin soi sáng tất cả mọi sự, bởi vì
chúng ta có lòng tin, điều đó không có nghĩa là chúng ta biết được tất cả mọi câu trả lời.
Nhưng chúng ta không nhất thiết biết tất cả những câu trả lời. Lòng tin là sự tin tưởng, chứ
không phải là biết chắc chắn.
Câu chuyện của Tôma đa nghi giúp chúng ta hiểu rằng ân sủng lòng tin được chứa đựng
trong bình chứa là con người nhân loại thật mỏng dòn biết bao. Và điều này cũng chỉ ra
cho chúng ta rằng lòng tin Kitô giáo nhất thiết phải là lòng tin đối với một Đấng đã yêu
thương chúng ta –và Người đã có những vết thương để chứng tỏ tình yêu này. Tất cả cốt
lõi của lòng tin trong Kinh Thánh không chỉ là lòng tin mà chúng ta có được nơi Thiên
Chúa, nhưng còn là lòng tin mà Thiên Chúa có nơi chúng ta.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Walter Ciszek, một linh mục dòng Tên người Ba Lan, đã trải qua 15 năm sống trong các
trại cưỡng bức lao động tại Siberia. Trong suốt những năm tháng đó, ông thuộc về những
lữ đoàn thấp kém nhất, đã ép buộc ông phải làm những công việc bẩn thỉu nhất – đào nền
bằng tay, khiêng vác những vật liệu xây dựng nặng nề, bò qua những khu hầm mỏ tối tăm,
ẩm thấp, tại đó, chỉ cần sơ ý một chút là đủ đưa đến cái chết.
Điều gì đã giúp cho ông tồn tại được? Ông nói “Nhiều người đã chết, đặc biệt khi mất đi
niềm hy vọng. Nhưng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa, và nhờ đó, không bao giờ tôi cảm thấy
mất niềm hy vọng. Không phải là tôi duy trì được lòng tin, nhưng chính lòng tin đã giúp
tôi tồn tại”.
Hạnh phúc cho những ai có được một lòng tin như thế.

home Mục lục Lưu trữ