Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 16

Tổng truy cập: 1343724

Tần số tình yêu

Tần số tình yêu – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé
chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha: – Ba ơi! Cái tháp đó để làm gì vậy?
Người cha giải thích: – Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó
phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.
– Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!

– Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái
máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói
chuyện với nhau đây!
Chiều Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con
người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau,
Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma,
hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đứng cứng lòng nữa,
nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy Chúa của
con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông đã
tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục sinh mà ông lại
không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và Tôma chính là chiếc máy thu thanh
của Tôma không mở đúng tần số, đó là tần số Tình Yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải
xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con
mắt thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan
chạy đến mộ Thầy nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy
đầu tiên trên bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên “người môn đệ Đức
Giêsu thương mến” (Ga 21,7).
Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô thì “rất đỗi ngạc
nhiên” còn Gioan thì “Ông đã thấy và ông đã tin”? (Ga 20,8). Vì thế, Phêrô phải cố gắng
vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải vượt qua cái
nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức tin. Nhưng Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay
những người đã không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Đó cũng chính là phần thưởng của đức
tin.
Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự phục sinh, là
vì ông đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “ngày thứ ba, (Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy” (Hs
6,2) và phép lạ “ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm” (Gn 2,1). Vâng, chính Kinh
Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi
biến cố hằng ngày.
Niềm tin vào mầu nhiệm phục sinh của chúng ta hôm nay không phải là một niềm tin mơ
hồ, mà là một niềm xác tín vào lời chứng chắc chắn của các Tông Đồ qua Kinh Thánh.
Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô đứng chung với mười một Tông Đồ
lớn tiếng tuyên bố rằng: “chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều
này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Đức Giêsu
đã bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi
dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của
mình” (1Cr 15,17).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để chúng con tin Chúa mãnh
liệt hơn.
Xin dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa mãi là đèn soi cho
chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen.
 
. Nỗi oan Tôma – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống.
Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng
tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai
tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví

von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn
giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.
Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó
lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang
Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời
mỗi Kitô hữu.
1. LẠY CHÚA TÔI, LẠY THIÊN CHÚA CỦA TÔI
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết
chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này
mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào
ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình
thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi
một người.
Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi
không thấy… tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người
nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là
người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức
tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng
không thể lẫn với người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau,
qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức
chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy
Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên
Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra
ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín,
cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin,
ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu
cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy
niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.
. ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi
oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần,
mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá
nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên
không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một
cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý
trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn
của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường
sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại
gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa
là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm
tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước
vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường
niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng
cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những

tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ
với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”
. PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình.
Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để
được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin
sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua
nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và
niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công
vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên
nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không
triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận
kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong
nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có
những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những
hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả
giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như
một người thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về
đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin,
hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin
điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết
đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt
trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta
có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi
bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm
đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu
đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.

home Mục lục Lưu trữ