Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 14
Tổng truy cập: 1338150
HÀNH TRÌNH GẶP GỠ GIỮA TÌNH YÊU VÀ ĐỨC TIN
HÀNH TRÌNH GẶP GỠ GIỮA TÌNH YÊU VÀ ĐỨC TIN
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Mẫu đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Canaan đưa chúng ta đến cuộc gặp gỡ giữa đức tin và tình yêu.
Trước tiên là tình yêu của người mẹ đối với đứa con gái. Chỉ một mẫu đối thoại ngắn giữa bà và Chúa Giêsu người ta đọc được chữ yêu to tướng trong trái tim của bà dành cho cho đứa con gái tật nguyền. Nhà văn Agatha Christie đã trình bày: “tình yêu của mẹ dành cho con chẳng giống thứ gì trên thế giới này. Nó không có quy tắc, không có thương hại, nó vượt qua và nghiền nát tất cả mọi thứ chắn lại đường đi của nó”. Quả thật, người đàn bà xứ Canaan đã nghiền nát sự tự ái, đạp đổ cái tôi, vượt thắng sự e ngại để cuối cùng bà đã mang lại niềm vui cho đứa con gái của bà. Nó được Chúa chữa lành khỏi bị quỷ ám.
Phải chăng tình mẫu tử của người đàn bà xứ Canaan đã khuất phục được Đức Kitô, để Ngài rộng tay chữa lành cho đứa con của bà? Thưa không phải thế, nhưng tình mẫu tử là con đường dẫn đến gặp Chúa với một điều xác tín: chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được cho con gái. Và chính niềm xác tín này đã hình thành nơi bà đức tin, và đây là điểm cốt lõi để Chúa thực hiện điều bà xin.
Đối với người Kitô hữu chúng ta, đức tin là một ân ban của Chúa, nhưng ân ban này là một quà tặng vô giá vì nhờ đó mà chúng ta nhận được ơn cứu sống, không có ân ban này chúng ta mãi mãi sống trong u tối, xa cách với Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống và hạnh phúc của chúng ta. Thế nhưng hồng ân đức tin chỉ thực sự mang lại hiệu quả khi chúng ta thực sự tín thác trọn vẹun cuộc sống của chúng ta vào bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Sự tín thác đòi hỏi chúng ta đi ra khỏi cái tôi chính mình, bởi đó là thành trì ngăn cản chúng ta gặp ân sủng Thiên Chúa, vì “cái tôi” luôn loại trừ dấn thân mà chỉ là đòi hỏi cho những quyền lợi vị kỷ, trong khi đức tin là một hành vi dấn thân để gặp gỡ với Đấng mình tin, một cuộc gặp gỡ để thanh luyện con tim và khối óc, để hoán cải hầu có thể đáp ứng yêu cầu của đức tin. Nói như đức Giáo hoàng Benêđictô XVI, đức tin ra đi ra khỏi chính mình đến “gặp gỡ với một Đấng thật gần gũi, một Đấng đỡ nâng chúng ta, tặng ban cho chúng ta một tình yêu bất hoại, vượt lên trên mọi gặp gỡ bất cập trong cõi nhân sinh, một tình yêu không những khao khát vĩnh cửu mà còn mang lại vĩnh cửu”.
Quả thật, người đàn bà xứ Canaan đã được hoán cải từ một hành trình đến gặp Đức Kitô vì đứa con gái thành một con người khiêm cung, nhận ra sự hèn kém của mình để việc van xin sự cứu chữa không còn là nài xin một sự thương hại, nhưng là kêu cầu đến lòng thương xót của một Đấng mà bà nhận ra rằng, chỉ có Ngài mới có thể cứu con bà không phải do lời van xin của bà, nhưng do chính tình yêu thương mà Ngài dành cho bà vì đức tin của bà.
Thật kỳ diệu về cuộc gặp gỡ giữa tình yêu và đức tin. Người đàn bà xứ Canaan đến gặp Chúa vì tình mẫu tử, và Chúa Giêsu chữa con gái của bà lành mạnh vì tình thương dành cho bà bởi bà tin.
Lạy Chúa, trong cuộc hành trình trên đường về nhà Cha, đức tin là đuốc sáng chỉ đường, nhưng đức tin chỉ cháy sáng khi chúng con thực sự tín thác vào Chúa, một sự tín thác vì lòng mến yêu. Để được như thế xin Chúa giúp chúng con nhận ra rằng, lòng mến yêu chỉ có được khi chúng con luôn tìm gặp Chúa, cũng có nghĩa là chúng con phải ra khỏi cái tôi ích kỷ, đừng để đức tin chỉ là phương thế phục vụ cho những nhu cầu riêng tư của chúng con, nhưng đức tin là cách thể để chúng con gặp được Chúa, đối thoại với Chúa, lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Thánh ý Chúa. Ước gì chúng con có tâm tình của người phụ nữ trong đoạn Tin Mừng: khiêm cung và hoàn toàn tín thác vào Chúa. Amen.
27.Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Lời cầu xin trên của người đàn bà Ca-na-an có gì khác không nhỉ với lời kêu cứu của Phê-rô “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức Giêsu coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14, 31) Còn lời cầu xin thương xót của người đàn bà Ca-na-an ngoại giáo và bất xứng này lại được Đức Giêsu đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”
Quả thế, đoạn tin mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương: là người Ca-na-an thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng xấu xa bất hạnh. Đức Giêsu, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp lại một lời’. Trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giêsu càng tỏ ra lạnh nhạt, “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc của nhà It-ra-en mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu người Do Thái nói chung và các môn đệ nói riêng (điển hình nhất là Phê-rô) tự coi mình là thành phần được tuyển chọn, là xứng đáng hơn ai hết lãnh nhận sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên Chúa, thì người dàn bà Ca-na-an này chỉ là con số không, thâm chí còn dưới không nữa. Thế nhưng chính ở điểm này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội dung sâu xa và độc đáo nhất của nó.
Còn về phía người đàn bà Ca-na-an, bà không hề muốn che dấu sự bất xứng của mình, ngược lại xem ra bà còn muốn đề cao nó hơn nữa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Quả thế, nếu đã xứng đáng thì chẳng cần gì tới lòng thương xót, ngược lại càng bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật dễ hiểu. Ai kể mình xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ được áp dụng luật công bằng với các cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giêsu hình như muốn cho thấy nó thật chan hòa tới độ, chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn đón nhận, thế là nó tuôn trào vô giới hạn - “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chính lúc khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà người đàn bà Ca-na-an hầu như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ đó con gái bà được khỏi’. Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm tốn đón nhận xót thương!
Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác khám phá ra và khai thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Ma-ri-a tại thôn xóm Na-da-rét. Trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ thi thố nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là các ơn huệ nhận được (nhân đức, thánh thiện hay trở thành vô nhiễm hay làm Mẹ Thiên Chúa…) mà chính là: vì mình được Thiên Chúa cứu độ và xót thương. Ân huệ nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới muôn đời.
Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Kitô hữu chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Ma-ri-a. Khiêm nhường là nhân đức không được mấy ai đề cao, và cũng ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Ma-ri-a, và đặt gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một ý nghĩa nào đó? Ma-ri-a Na-da-rét và Ma-ri-a Mác-đa-la bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có lý lịch rất khác biệt nhau này chính là các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín chân nhận ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’ để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa - Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho tất cả các con cái của Mẹ đến muôn thuở muôn đời. Amen.
28.Lòng tin của người đàn bà xứ Canaan
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho người Do Thái mà còn ban ơn cho cả dân ngoại. Người đàn bà Canaan là một người dân ngoại, đáng lẽ bà không được hưởng hồng ân Chúa ban vì Đức Giêsu chỉ muốn thi hành sứ mệnh của Ngài với dân Do Thái, nhưng Chúa không ngần ngại nhận lời cầu xin của người dân ngoại này.
Tại sao Chúa ban hồng ân cho bà ấy? Vì bà có một đức tin rất khiêm nhường và hoàn toàn trông cậy vào Chúa Đức tin mạnh mẽ đã làm phát sinh lòng can đảm, khiêm hạ và kiên trì.
Bà đã can đảm, bởi vì bà là người ngoại giáo mà dám đến xin phép lạ cho con mình. Vào thời Chúa Giêsu người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách lại càng xa hơn, thế mà người phụ nữ này đã vượt qua mọi rào cản để đến với Chúa
Bà đã kiên trì và khiêm nhường xin cho được một ân huệ, bất chấp sự hững hờ của Chúa Giêsu.Các Tông đồ muốn đuổi bà đi, và chính Chúa Giêsu cũng dùng kiểu nói hơi nặng lời: ”Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà sụp lạy trước mặt Ngài hơn lũ chó con nằm chờ chực vụn bánh từ trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa:
”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”. “Con cái” ở đây được hiểu về dân Do thái, “chó con” được hiểu về dân ngoại.
Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do Thái chứ không có ý mỉa mai. Chúa dùng chữ “chó con” mà không dùng chữ “chó” xuông. “Chó con” là giống nuôi trong nhà được vỗ về, còn chó chạy lang thang ngoài đường phố mới có nghĩa khinh bỉ. Và chính tiếng “chó con” nàyđã gợi cho bà một lời thỉnh cầu đầy khiêm nhường và tin tưởng.
”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những vụn bánh từ trên bàn rơi xuống”.
Sở dĩ người đàn bà Canaan có lòng can đảm khiêm nhu và kiên trì như thế bởi vì bà rất thương yêu đứa con của bà. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, bất chấp sự dửng dưng lạnh nhạt và ngay cả sự khinh khi nhục mạ nữa.
Tôi còn nhớ một câu chuyện xảy ra ở Đông Âu vào tháng 2 năm 2002: Có hai mẹ con chưa thật sự thấu hiểu nhau. Đứa con gái 13 tuổi luôn cho rằng địa vị người mẹ thấp hèn, có người mẹ như vậy không thể ngẩng đầu lên nhìn ai được. Một ngày kia, người mẹ rủ con gái đi trượt tuyết trên núi Alpes. Trong lúc trượt tuyết, do thiếu kinh nghiệm, hai mẹ con đã lạc đường, rồi một trận lở tuyết dữ dội xảy đến. Mẹ con họ chống chọi hai ngày hai đêm trên núi tuyết, mấy lần trông thấy trực thăng cứu hộ đang đi tìm họ, nhưng đều không thể phát hiện ra họbởi vì cả hai mẹ con đều mặc bộ đồ màu trắng bạc như tuyết. Cuối cùng, người con gái ngất đi do sức yếu, khi tỉnh dậy cô bé thấy mình đang nằm trong bệnh viện, còn người mẹ của cô đã qua đời. Các bác sĩ nói với cô rằng, người mẹ đã dùng cả sinh mạng để cứu cô. Thì ra, người mẹ đã tự cắt động mạch lấy máu nhuộm đỏ một vùng tuyết trắng để các trực thăng cứu hộ phát hiện ra con gái mình.
Tình thương của người mẹ là như thế đó, và tình thương của người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vậy.
Bà yêu thương đứa con nhỏ yếu đuối, không tự làm được gì để cứu mình, nên bà đã làm mọi cách để cứu đứa con của mình.Yêu con nên bà đã tin Chúa. Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa. Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo. Yêu con nên bà đã tín thác vào Chúa. bà tin chắc chắn Chúa sẽ cứu chữa con bà.Một đức tin mạnh mẽ đã làm phát sinh lòng can đảm, khiêm nhu và kiên trì và đức tin mạnh mẽ ấy đã khiến Đức Giêsu không thể từ chối.
Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa. Đó chính là điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
29.Đức tin là một lộ trình
Tháng 12 năm 1987 một trận động đất kinh hoàng đã xảy ra tại Armênia, đã cướp đi sinh mạng hàng ngàn người, trong số những người bị chôn vùi trong đống đổ nát có mẹ con bà Suzanna may mắn nằm gọn trong một khoảng trống của những bức tường sụp đổ. Lương thực họ có được là một hủ mứt nhỏ, nhưng chẳng bao lâu hủ mứt hết sạch, đứa con nói với bà mẹ: "mẹ ơi con khát", bà mẹ không biết tìm đâu ra nước cho đứa con, nhưng tình mẫu tử đã thôi thúc bà nẩy ra một hành động táo bạo, bà đưa tay nhặt lấy miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay cho máu chảy ra rồi đưa lên miệng cho đứa con 4 tuổi mút, nhưng không lâu thì đứa con lại kêu lên nữa, bà cắt ngón thứ hai, rồi ngón thứ ba... nhưng may mắn lại đến với mẹ con bà là đội cứu hộ tìm đến và đưa hai mẹ con ra khỏi đống đổ nát an toàn, nhiều người đến chúc mừng và hỏi thăm động lực nào khiến bà làm chuyện đó? Bà chỉ trả lời "tôi muốn con tôi được sống". Báo chí đã nhiều ngày ca tụng tình mẫu tử và sự hy sinh của bà mẹ xứ Armênia này.
Hôm nay thánh Matthêu cũng giới thiệu cho chúng ta một người mẹ xứ Canaan chấp nhận và hy sinh mọi sự chỉ vì đứa con, nhưng Chúa Giêsu không khen ngợi tình mẫu tử, mà Ngài lại khen ngợi về đức tin. Tại sao một người ngoại giáo mà lại được Chúa Giêsu khen ngợi về đức tin?
Thật vậy, Đức Giêsu khen ba ta vì những nguyên nhân sau:
1. Đức tin đến từ việc nghe nói
Điều chắc chắn người phụ nữ Canaan này đã nghe nói về Con Người Giêsu, về những phép lạ Ngài làm, về những lời rao giảng của Ngài... vì danh tiếng của Người lan rộng ra khắp vùng (Mc 3,8). Người phụ nữ này với một tia hy vọng là gặp được ông Giêsu để xin một phép lạ cho con gái bà. Còn chúng ta có được đức tin là ngay từ nhỏ đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu từ trong gia đình, từ trong khu xóm, họ đạo... nhưng tôi có nói cho những người ngoại giáo dang sống chung quanh tôi biết về Chúa Giêsu không? Họ chính là những người Canaan thời đại ở quanh ta.
2. Đức tin có được là nhờ sự kiếm tìm
Người phụ nữ Canaan sau khi nghe về Chúa Giêsu, bà luôn luôn nghe ngóng về tin tức với hy vọng sẽ gặp để xin một phép lạ cho con gái bà. Khi Chúa Giêsu tới Tyr và Sidom thì bà vội vã ra khỏi Canaan mà đến để xin Người "Lạy con vua Đavit, xin dủ lòng thương xót tôi..." danh hiệâu này bà biết được cũng là nhờ nghe nói. Trước lời kêu xin của người phụ nữ này, Chúa Giêsu không những lặng thinh mà con lên tiếng chối từ "Ta được sai đến với những con chiên lạc nhà Ísrael mà thôi". Sự thinh lặng và thái độ chối từ của Chúa Giêsu đã làm cho các tông đồ phải thắc mắc, vì thầy mình vừa dạy "Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho" thế mà hôm nay, trước lời kêu xin của người đàn bà này thì thầy mình lại chối từ. Còn thái độ của chúng ta thì sao? Hằng ngày tôi chạy đi tìm Chúa để xin hết ơn này đến ơn khác, nếu được nhận lời thì coi như là việc của Chúa phải làm, còn Chúa thinh lặng, hay chối từ thì ta buồn phiền, giận ghét, bỏ đạo hay chạy theo những thế lực trần gian, hay còn tệ hơn nữa là chạy theo tà thần. Riêng người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay thì vẫn khiêm tốn, không tuyệt vọng, không than phiền, không thắc mắc...bà không những kêu xin bằng miệng, mà bà còn kêu xin bằng cả con người. Trước sự khiêm tốn đó làm cho Chúa Giêsu không thể chối từ được, nên Ngài dẫn bà vào cuộc thử thách.
3. Đức tin cần được thử thách
Trước sự kiên trì của người phụ nữ, Chúa Giêsu lên tiếng "không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con", một thử thách dường như quá nặng, quá khó đối với người ngoại giáo này. Nếu người mẹ xứ Armênia chỉ hy sinh những giọt máu để cứu đưa con, thì bà mẹ Canaan lại hạ mình xuống ngang với "con cho" cũng vì đứa con. Nhưng chính lòng khiêm tốn của bà lại làm cho các tông đồ phải ngạc nhiên "Thưa Thầy đúng lắm, nhưng mà chó con cũng đáng được hưởng những mảnh vụn từ trên bàn của chủ nó rơi xuống". Trước câu trả lời đầy khiêm tốn này đã làm cho Chúa Giêsu "phải bó tay" mà thốt lên "Đức tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được như vậy".
Đứng trước những thử thách trong cuộc sống, chúng ta có chấp nhận hay kêu ca? Phải chăng nhiều lần tôi có thái độ hoán hận Thiên Chúa vì những khó khăn tôi gặp phải. Lúc đó tôi không đủ khiêm tốn để nhận ra ý Chúa trong những thử thách, mà tôi muốn Chúa phải làm theo ý của tôi. Chúng ta đã nghe nói nhiều về Chúa, đã đi tìm Chúa trong suốt thời gian qua, nhưng tôi có hiểu được ý Chúa chưa? Trong đời sống, tôi có đủ khiêm tốn để chấp nhận cho Chúa thử thách không? Mỗi người chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình và hãy tín thác đời mình cho Chúa. Chúng ta phải tin rằng: "Chúa không bao giờ chơi xấu" Ngài biết sức chịu đựng của ta. Vậy mỗi người hãy biết sống khiêm tốn như người phụ nữ Canaan và dùng lời kêu xin như một lời nguyện tắt để ta có thể kêu lên Chúa bất cứ lúc nào trong ngày: "Lạy Chúa, xin thương xót con", "Lạy Chúa, xin thương gia đình con", "Lạy Chúa, xin thương xót họ đạo con", "Lạy Chúa, xin thương xót Giáo Hội Việt Nam chúng con". Amen!
30.Chúa Giêsu đã thua một đức tin tuyệt vời
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc, Người mang hạnh phúc đến cho chúng ta, người đàn bà xứ Canaan hiểu điều đó đã tìm đến Chúa! Bà muốn Chúa Giêsu nhìn đến nhu cầu bà xin cho con gái bà. Bà muốn Thiên Chúa thể hiện lòng nhân lành đối với con bà, lời van xin của bà mới đẹp làm sao: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi!" (Mt 15, 22) Bà coi Chúa Giêsu là Đấng Messia.
Sự thinh lặng của Chúa Giêsu
Bà xin Chúa không trả lời, có phải bà bị miệt thị không? Chắc chắn là thế, nhưng bà cứ xin Chúa phải trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel" (Mt 15, 24). Câu này thể hiện sự vâng phục của Chúa Giêsu được Cha sai đến cùng dân Israel, và mạc khải cho dân biết về lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với họ. Lời cầu xin của bà xứ Canaan khó có thế chấp nhận, nhưng bản chất và tình thương của một người mẹ bảo bà cứ xin.
Chúng ta biết, giữa người Do thái và dân ngoại có một bức tường ngăn cách, thánh Phaolô gọi đó là "bức tường hận thù" (x. Eph 2, 14). Chính sự ngăn cách này mà Chúa Giêsu cũng bảo môn đệ đừng đi theo đường của dân ngoại, cầu nguyện "đừng có lải nhải như dân ngoại" (Mt 6, 7). Và nếu ai đó muốn nhục mà người nào trong dân Israel, thì hãy "đối xứ với họ như dân ngoại " (x. Mt 18, 17), nên không có lạ gì khi môn đệ ngạc nhiên thấy Thầy tiếp chuyện với người phụ nữ xứ Samaria dân ngoại. Thế mới biết người đàn bà xứ Canaan can đảm biết chừng nào, bà đã vượt qua tất cả rào cản về tôn giáo, địa lý, niềm tin, nhất là về thân phận phụ nữ của chính bà. Vì ngay người nữ Do thái còn không được nhắc đến trong lời cầu nguyện, lời chứng của họ không có giá trị pháp lý, không giải quyết được gì ở nơi công cộng, huống hồ là đàn bà dân ngoại.
Chúa Giêsu không đề cập đến những vấn đề trên. Tuy nhiên, bà này vượt qua ranh giới dân ngoại, kêu xin một người Do thái với lòng kính trọng: "Lạy Ngài là con Vua Đavít" (Mt 15, 22). Có lẽ bà đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu, trong lòng bà có điều không biết rõ, phải chăng là hồng ân của Thiên Chúa.
Nhưng bà biết, theo ý kiến của dân chúng, bà có thể xin được điều bà cần nơi Đấng được Thiên Chúa sai đến. Bà liều đến, Chúa Giêsu không chấp nhận, bà nhờ vả các môn đệ, khiến các ông phải thưa với Chúa Giêsu: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi" (Mt 15, 23). Các ông muốn Chúa nhận lời ngay, Chúa từ chối, bà khăng khăng sấp mình xuống. Chúa bảo bà, "không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó" (Mt 15, 26) để giải thích lý do tại sao Người không thể nhận lời bà xin. Bà đáp rằng, "vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống" (Mt 15, 27). Lời này đã thuyết phục được Chúa Giêsu, ma quỉ bị trục xuất, con gái bà được giải thoát.
Lời bà van xin không được xét đến, xin mãi bị từ chối, lại còn bị miệt thị như chó. Chúng ta tự hỏi: điều gì đã khiến cho bà dám làm tất cả? Thưa vì yêu. Với tình mẫu tử, bà không đành lòng ngồi nhìn đứa con mình bị ma quỉ hành hạ, bà đi khắp đó đây tìm thầy chạy thuốc, vượt qua cả những nơi bị xem là cấm kỵ. Yêu con, bà chấp nhận tất cả, không những đến với Chúa Giêsu là người Do thái, lại còn tin Chúa có quyền năng thống trị được ma quỉ, tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa, tin Chúa có trái tim rộng mở để không phân biệt người ngoại, kẻ đạo. Đáng ngưỡng mộ cho một người mẹ.
Giao ước và đức tin
Dù bà đã công nhận kế hoạch của Thiên Chúa, cũng như vai trò cứu thế của Chúa Giêsu được sai đến với nhà Israel, nhưng bà hy vọng rằng sự quan phòng của Thiên Chúa Đấng Cứu Thế không chỉ liên kết chặt chẽ với Israel, mà còn trải dài đến mọi dân tộc, kể cả dân ngoại, "vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc" (Is 56, 7 ); để "hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài" (Tv 66). Bà cũng tin rằng, những rào cản ngăn cách giữa con người một ngày kia sẽ được rỡ bỏ, không còn trở ngại cho việc thi ân giáng phúc của Thiên Chúa. Bà tin, Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến như vị Cứu tinh dân ngoại, bởi bà tin Thiên Chúa đã hành động. Lời thánh Phaolô chứng tỏ điểu đó: "Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót" (Rm 11, 32). Tại Nagiaret, Đức Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào vì họ không tin vào Người, bởi vì họ cứng lòng tin. Người đàn bà này bằng đức tin đã đến gần Chúa Giêsu. Bà quả là một người mẹ có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, bà đã được Thiên Chúa xót thương (x. Rm 11, 13-15. 29-32)
Bài học cho chúng ta
Chúng ta học được nhiều điều ở nơi bà xứ Canaan. Nhờ đức tin của bà, Chúa Giêsu hoàn thành phép lạ cứu con gái bà. Người ban cho bà được đồng bàn tình thương của Thiên Chúa như con cái Cha trên Trời. Được trở nên con cái Thiên Chúa là ơn gọi của chúng ta! Chúng ta không bị tách rời khỏi Giao ước ban đầu. Chúa Giêsu đến để kiện toàn, vì: "Không còn Do Thái hay Hi lạp; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì hết thảy anh em là một trong Đức Kitô Yêsu"(Gal 3, 28). Thánh Gioan nói với chúng ta rằng chúng ta có quyền là con. Tất cả những ai đón nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (x. Ga 1, 12). Cả chúng ta nữa, chúng ta được Thiên Chúa Cha mời gọi vào dự tiệc cưới Con Chiên.
Bánh vẫn luôn luôn là nội dung của câu chuyện. Bánh được ban cho dân chúng ăn no nê, thỏa mãn sự thèm muốn. Bánh đã được ban tặng cho 12 chi tộc Israel, bánh ấy đã không được chấp nhận, nay Bánh ấy được ban cho dân ngoại. Chúa Giêsu là Bánh của con cái Thiên Chúa. Phẩm vị của những người làm con Thiên Chúa mới đẹp làm sao.
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện, như: người bạn đến quấy rầy xin bánh, bà góa yêu cầu vị thẩm phán bất lương xử kiện, cụ thể người đàn bà xứ Canaan đã chiến đấu và đã chiến thắng. Thiên Chúa vui mừng vì đã có cơ hội để chịu thua một đức tin tuyệt vời. Trong đời sống của chúng ta, chúng ta cũng phải chiến đấu một trận chiến, ai có đức tin tuyệt vời sẽ là người chiến thắng. Amen.
31.Lòng tin của bà lớn thật
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Ngay sau những tranh luận gay gắt giữa Chúa Giêsu và các Pharisêô về truyền thống của tiền nhân của người do thái, mà các môn đệ của Chúa Giêsu đã không tuân giữ (15,1-20), Matthêô đưa vào đây trình thuật về người phụ nữ Canaan (15,21-28). Trong trình thuật nầy, Matthêô cho thấy Chúa Giêsu đi ra ngoài biên giới do thái, và Ngài ca ngợi lòng tin của một phụ nữ dân ngoại; điều nầy hoàn toàn khác với việc Ngài phê bình cách các vị lãnh đạo tôn giáo do thái thờ phượng Thiên Chúa (15,7-9).
Chủ đề chính của đoạn nầy là nói về đức tin mạnh mẽ của người phụ nữ Canaan. Các từ vựng trong đoạn nầy có thể phân làm hai nhóm tương phản nhau. Một bên là thuộc về do thái, như: “Con vua Đavít” (c. 22), “Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel” (c. 24), “bánh của con cái” (c. 26). Bên kia là nhóm thuộc về dân ngoại: “Tyrô và Siđôn” (c. 21), “phụ nữ Canaan” (c. 22), “đàn chó”(c. 26). Tuy nhiên, “đức tin lớn” lại thuộc về người phụ nữ Canaan (c. 28). Hạn từ Iēsous (cc. 21 và 28) đóng khung đoạn nầy. Đoạn nầy có thể phân chia thành ba phần: – Bối cảnh trình thuật (cc. 21-22a), – Cuộc đối thoại (cc. 22b-27), – Kết luận (c. 28).
Bối cảnh trình thuật (cc. 21-22a)
Khung cảnh thay đổi ngay từ đầu trình thuật. Chúa Giêsu đã rời “nơi đó”, ekeithen, có thể là Gennesareth hay một nơi không xác định trước, và đi đến vùng Tirô và Siđôn (c. 21). Ngài không còn đứng trước các Pharisêô và kinh sư để tranh luận, mà là người phụ nữ Canaan. Matthêô không đề cập đến “cái nhà” Chúa Giêsu vào trong đó, và người phụ nữ nầy tìm đến như trong Marcô (x. Mc 7,24), vì người ta sẽ nghĩ đó là nhà của dân ngoại. Nếu làm như thế, Chúa Giêsu sẽ xúc phạm đến tâm thức của người do thái (x. Cv 10,28). Bởi đó, Matthêô chỉ thuật lại là Chúa Giêsu vào vùng ấy và người phụ nữ tìm đến Ngài (c. 22). Tyrô và Siđôn là hai thành dân ngoại được Chúa Giêsu đề cập một lần khác trong 11,21 khi nói về sự hoán cải. Nơi đây đã không được Chúa Giêsu thực hiện nhiều phép lạ. “Tyrô và Siđôn” và người phụ nữ Canaan gắn liền với nhau.
Cuộc đối thoại (cc. 22b-27)
Phần chính của trình thuật nầy là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với các môn đệ và đặc biệt là với người phụ nữ Canaan (cc. 22b-27). Cứ sau mỗi lời ngỏ với Chúa Giêsu là một lời đáp lại của Ngài: Người phụ nữ nài xin (c.22b) – Chúa Giêsu đáp lại (c. 23a), ho de apokrinomai; – Các môn đệ cầu xin (c.23b) – Chúa Giêsu đáp lại (c. 24) ho de apokrinomai; – Người phụ nữ cầu xin (c. 25) – Chúa Giêsu đáp lại (c. 26), ho de apokrinomai; Người phụ nữ cầu xin (c. 27) – Chúa Giêsu đáp lại (c. 28), ho de apokrinomai.
Trước tiên bà nài xin “Xin thương xót tôi, lạy Chúa, con vua Đavít” (c. 22b). Câu nầy không có trong trình thuật song song nơi Marcô. Tước hiệu “Con vua Đavít” là một tước hiệu thiên sai (1,1). Chúa Giêsu nhiều lần chữa bệnh với tước hiệu “Con vua Đavít” (9,27; 12,23; 15,22; 20,30-1). Ngay từ câu nài xin đầu tiên nầy, người phụ nữ gọi Ngài là “Chúa”, kyrie. Bà nhận biết sự cao cả của Ngài. Bà kiên tâm với cách gọi nầy cho đến cùng (cc. 25.27), mặc dù Chúa Giêsu tỏ vẻ từ chối điều bà nài xin bằng ba mệnh đề phủ định (cc. 23.24.26).
Chúa Giêsu không đáp lại (c. 23). Ngài làm như thể không có gì liên hệ với người dân ngoại nầy (x. Lc 10,31tt). Thái độ của Ngài lúc nầy khác hẳn với cách Ngài đối xử với dân chúng đang đói trong trình thuật trước. Chính Ngài có sáng kiến và tự tay làm nên bánh cho dân chúng ăn, mà không đợi họ kêu xin. Về phía các môn đệ, họ luôn nghĩ đến điều thực tiễn. Họ muốn Ngài “giải tán”, apoluō, bà nầy đi cho khỏi bị quấy rầy (c. 23), như họ đã đề nghị với Chúa Giêsu về dân chúng trong trình thuật trước (14,15). Matthêô vẫn dùng động từ “bà kêu lớn tiếng”, krazō + phân từ của động từ legō, như trong các trình thuật phép lạ khác (9,27; 14,26.30; 15,22tt; 20,30tt). Lần nào người kêu cứu cũng được nghe, và chỉ lần nầy là Chúa “không đáp lại”. Hơn nữa, các môn đệ nói với Chúa Giêsu (c. 23) là ekrasen opisthen hymōn, “bà kêu lớn tiếng sau (lưng) chúng ta” (x. 9,20; Kh 1,10); opisthen ở đây được dùng như giới từ sở hữu cách (DBF § 215,1). Như thế không phải Chúa Giêsu không nghe tiếng kêu của người phụ nữ nầy.
Đáp lại lời nài xin của các môn đệ, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ và người phụ nữ nầy biết sứ mạng của Ngài là chỉ trong vòng các chiên lạc nhà Israel (c. 24). Cách diễn tả apostellō + eis, “sai đến trong”, chỉ vòng giới hạn. Ở đây là giữa “chiên lạc nhà Israel”. Chúa Giêsu đã nói điều nầy với các môn đệ (10,5-6). “Các chiên lạc nhà Israel” là những người cần một mục tử tốt lành (9,36) để họ khỏi bị phân tán và thất lạc (x. 18,12; 26,31).
Tiếp đến, người phụ nữ nầy không còn nài xin từ đằng sau nữa, mà đến quỳ trước mặt Chúa Giêsu (c. 25). Bà quỳ gối trước mặt Ngài và gọi Ngài là “Chúa” (2,11; 14,33; 28,9) vì bà vẫn tin vào quyền năng của Ngài (8,2; 9,18). Lời nài xin lần nầy, dùng động từ boētheō, “đến cứu giúp”, nhắc lại lời nài xin ở c. 22b, và có tâm tình của những lời cầu xin tìm thấy trong Sách Thánh, nhất là các thánh vịnh (Tv 40,3, 43,27, 85,17, 93,17, 18, 108,26; Is 50,9).
Bà càng nài nỉ, Chúa Giêsu càng tỏ ra từ chối cách dứt khoát. Ngài nói: “Không nên lấy bánh của con nhỏ mà quăng cho chó con” (c. 26). Với câu đáp nầy, Chúa Giêsu muốn khẳng định thêm lần nữa cách gián tiếp là Ngài chỉ được sai đến để ban bánh cho con cái trong nhà mà thôi (x. 14,13-21; Rm 15,8-9). Ngài dùng cách nói của người do thái phân biệt mình với người khác niềm tin, “chó”, chứ không có ý miệt thị người dân ngoại. Chữ kynariōn được dùng ở đây là “chó con”, “chó nhà”, khác với kyōn“chó ngoài đường” (7,6).
Người phụ nữ nầy vẫn kiên trì nài xin: “Vâng, lạy Chúa, chó con cũng được ăn những mảnh vụn rơi xuống từ bàn chủ chúng rơi xuống” (c. 27). Lần nầy bà không nài xin thương đến sự thống khổ của bà, mà là tuyên xưng lòng tin vào Ngài. Bà tuyên xưng Ngài là “Chúa”, và bà diễn giải đức tin của bà vào Ngài. Một đàng bà nhận biết sứ mạng của Chúa Giêsu lúc nầy là dành ưu tiên cho dân Israel: “bánh cho con cái” (c. 26). Đàng khác, bà mạnh dạn khẳng định là dân ngoại cũng có một chỗ đứng trong sứ mạng của Ngài: “chó con ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Từ kyriōn, “chủ”, số nhiều, tương ứng với teknōn, “con cái” (c. 27), chỉ dân Israel. Chỗ đứng của dân ngoại tuy là thứ yếu, nhưng họ được ở chung, “chó con dưới bàn”, trong nhà của dân Israel, và được ăn bánh đồng thời với dân Israel. Động từ esthiō, “ăn” ở thì hiện tại, và phân động từ piptō, “rơi xuống” cũng ở thì hiện tại chỉ sự kiện đang diễn ra đồng thời với hành động chính là “ăn”. Vậy người phụ nữ nầy đã tin vào sứ mạng phổ quát của Chúa Giêsu
Lời Ca Ngợi của Chúa Giêsu (c. 28)
Chúa Giêsu thán phục lòng tin của bà: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!” (c. 28). Ō gynai, “Này bà!” diễn tả sự kinh ngạc. Ngài ca ngợi bà có “lòng tin lớn”, megalē + pistis; tương phản với lòng tin của các môn đệ (8,23), của Phêrô (14,31). Bởi lòng tin của bà, con gái bà được chữa lành, như câu chuyện chữa lành người tôi tớ của viên bách quản (8,10). Cả hai đều được ca ngợi về lòng tin. Vậy vì bà tin vào Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai không chỉ của dân Israel (c. 22) mà cả dân ngoại, bà được ca ngợi có lòng tin lớn lao.
Đi tìm sự chữa lành cho con gái, người phụ nữ Canaan nầy đã gặp được Đấng Thiên Sai. Bà đã tin vào Ngài và sứ mạng của Ngài, và chính con gái bà nhận được phúc lành bởi lòng tin lớn lao của bà. Bất cứ ai tin vào Chúa Giêsu Kitô đều được cứu độ.
32.Những ân tình thường tình
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Phải vào đạo Công giáo mới được được lên thiên đàng sao? Vâng, đúng thế. Một thừa sai cách đây gần 300 năm không chỉ xác quyết như trên mà còn nói thêm rằng mọi người không vào đạo Công giáo đều xuống hỏa ngục. Một bà vương tộc nước Việt chúng ta, người đặt câu hỏi trên đây đã nhất quyết không vào đạo Công giáo vì một chức sắc của đạo ấy quả quyết tiên tổ của bà đều xuống hỏa ngục tất. Và chính bà ta đã thẳng tay đuổi vị thừa sai ra khỏi nhà.
Cần khiêm tốn thú nhận rằng đã một thời Kitô hữu chúng ta tự nhốt mình trong tháp ngà tự kiêu chủ quan: Chỉ có đạo ta mới là đạo thật, chỉ có chúng ta mới nắm trọn chân lý, ngoài đạo ta, anh em lương dân, bà con khác đạo đều là sai lạc sạch sành sanh và không thể được cứu rỗi.
Thử hỏi chân lý ta có được do bởi đâu, phải chăng là nhờ sự truy tìm của trí khôn? Không loại trừ sự góp phần của lý trí, nhưng nguyên lý trí vẫn chưa đủ. Chân lý ta thủ đắc là nhờ lòng tin dựa vào sự mạc khải của Thiên Chúa. Đức tin là ân sủng nhưng không do Chúa ban tặng. Thiên Chúa lại là Đấng giàu lòng từ bi, nhân ái. Người muốn mọi người nhận biết chân lý để được cứu rỗi. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định sự thật này với môn đệ Timôtê (x. Tim 2,3-4 ). Thiên Chúa, Đấng chẳng nể vì hay tây vị một ai, Đấng rộng tay cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, Đấng làm cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn kẻ bất lương, chắn chắn Người chẳng hẹp hòi với bất cứ ai. Tiên tri Isaia công bố rằng mọi người sẽ được Chúa dẫn lên Núi thánh, cho họ hân hoan bước vào Nhà cầu nguyện, vì Nhà Chúa là nhà cầu nguyện của muôn dân nước ( x.Is 56,6-7 ).
Đức tin là do Chúa ban tặng. Thế nhưng đức tin không phải là một món quà cụ thể được trao ban một lần tức thời, nhưng thường là dần dần qua những điều kiện tự nhiên khách quan lẫn chủ quan. Một trong những điều kiện tự nhiên ấy chính là những mối tình chân chính bình thường của kiếp người: Tình phụ tử, mẫu tử, tình phu thê, tình bằng hữu... Một người mẹ, một phụ nữ xứ Canaan, một lương dân hay ngoại giáo đã bày tỏ niềm tin sắt đá khiến Chúa Giêsu phải khâm phục. Đấng Thiên sai cũng đã từng khâm phục lòng tin của một viên sĩ quan bách quản đến nỗi Người khẳng định rằng chưa thấy có lòng tin nào mạnh mẽ như thế trong Israel ( x. Mt 8,10 ).
Viên sĩ quan bách quản và người mẹ xứ Canaan trên đã sớm chân nhận căn tính Thiên Sai của Chúa Giêsu chăng? Điều này chúng ta không thể trả lời cách chắc chắn. Nhưng một điều thật hiển nhiên ta có thể khẳng định, đó là tấm lòng của người phụ nữ ngoại giáo dành cho đứa con và tấm lòng của viên sĩ quan bách quản dành cho người đầy tớ thật sâu đậm và dạt dào. Vì thương con, chị phụ nữ kiên trì lẽo đẽo theo chân Thầy Giêsu. Cũng vì thương con, chị đã vượt qua chướng ngại của sự tự ái, đồng thời bày tỏ sự khiêm nhu: "Vâng, thưa Ngài, dẫu sao, chó con cũng được hưởng những mãnh vụn từ bàn rơi xuống" ( Mt 15,27 ). Vì thương người đầy tớ, viên sĩ quan bách quản không ngại ngần đến gặp Chúa Giêsu, một người Do Thái vốn là dân đang bị cai trị, đồng thời lại bày tỏ sự khiêm nhu: " Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi..." ( Mt 8,8 ).
Theo tiến trình tự nhiên, thì không phải nhờ đã có lòng tin nên ta biết yêu, mà ngược lại nhờ biết yêu thương thì lòng tin của ta dần dà nên vững mạnh. Chúng ta dễ nhận ra hiện thực này qua tương quan đôi lứa. Vì yêu nhau nên đôi bạn trẻ ngày càng tin tưởng nhau hơn là vì đã tin tưởng nhau nên họ yêu nhau. Như thế niềm tin thường khởi đi từ trái tim hơn là từ khối óc. Quả thật. lịch sủ Hội Thánh minh chứng rằng người ta đến với đức tin thường là do cảm nhận một mối tình, một nghĩa cử nào đó hơn là do "bị thua lý". Xét theo chiều ngược lại, khi niềm tin của một Kitô hữu ngã nghiêng, chao đảo hay khô cằn, thì lý do thường thấy là vì đời sống luân lý sa sút hơn là do thiếu hiểu biết, mặc dù ta không thể loại trừ hay giảm nhẹ vai trò của lý trí trong việc gìn giữ và củng cố đức tin.
Trong thời gian rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu thường bày tỏ tình yêu của Người qua việc thi ân giáng phúc rồi sau đó mời gọi người ta tin vào Người. Phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi no đủ gần cả vạn người cũng như nhiều phép lạ khác như chữa lành người mù từ thưở mới sinh... là một minh chứng ( Ga 6,35; 9,35 ). Ngay đêm Tiệc lý, sau khi cử hành "Lễ tạ ơn" và rửa chân cho các môn đệ Chúa Giêsu tha thiết: "Anh em hãy tin vào Thầy..." ( Ga 14,1 ).
Là những người đã lãnh nhận hồng ân đức tin và được xem là người có đức tin, ước gì chúng ta biết củng cố niềm tin của mình bằng chính những nghĩa cử bác ái yêu thương. "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" ( Gia 2,17 ). Khi khẳng định chân lý này thánh Giacôbê tông đồ trước tiên muốn nói đến hành vi bác ái mà Kitô hữu cần thường xuyên thực thi. Vì trước đó Ngài nói: "Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không có đủ của ăn hằng ngày mà có ai trong anh em lại nói với họ: 'Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no', nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ cần, thì nào có ích lợi gì?" ( Gia 2,15-16 ).
Một sứ vụ gắn liền với căn tính của Kitô hữu, đó là rao giảng tin mừng, là chia sẻ niềm tin mình đã lãnh nhận. Có nhiều cách thế để thực thi sứ mạng truyền giáo, tuy nhiên cách thế xem ra thiết thực nhất, để khởi đầu việc gieo hạt giống đức tin đó là rộng tay chia sẻ tấm lòng của mình qua các mối tình nhân loại chính đáng và phải đạo. Dĩ nhiên không phải dùng của cải vật chất như chiêu bài để câu tín hữu như đã có một thời với "chuyện đạo gạo, đạo bộp bắp, bột xép...", nhưng phải phát xuất từ một tấm lòng yêu thương chân thật.
Biết yêu thương, dù với những nghĩa cử thường tình của tình nhân loại, thì niềm tin sẽ được củng cố. Được yêu thương thì niềm tin sẽ được gợi mở và dệt xây. Thiên Chúa sẵn sàng đón nhận những ân tình bình thường của ta để tuôn ban ân sủng đức tin. Có đức tin thì sẽ có sự sống đời đời. Xin đừng quên lời cảnh báo của Thầy chí thánh: "Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến cùng dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac va Giacop trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng (Mt 8,11-12).
33.Sống niềm tin – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: "Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu". Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Đôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta". Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Đền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa".
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Đây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT PHỤC SINH (19/04/2025) .: CHÚA KITÔ SỐNG LẠI, NỀN TẢNG CỦA NIỀM TIN KITÔ GIÁO (19/04/2025) .: ĐỨC GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI THẬT VÀ CÁC CUỘC ĐỔI ĐỜI (19/04/2025) .: NGÔI MỘ LÀ ĐIỂM KHỞI ĐẦU HAY LÀ ĐIỂM CUỐI ? (19/04/2025) .: MARTHON (19/04/2025) .: GIOAN THẤY VÀ TIN (19/04/2025) .: SAO CÁC NGƯỜI TÌM NGƯỜI SỐNG GIỮA KẺ CHẾT (19/04/2025) .: NIỀM TIN CHÚA PHỤC SINH ĐỔI MỚI ĐỜI TA (19/04/2025) .: MẶT TRỜI HÉ MỌC (19/04/2025) .: NGƯỜI ĐÃ TRỖI DẬY RỒI (19/04/2025) .: ÁNH LỬA PHỤC SINH (19/04/2025) .: CÁC NHÂN CHỨNG PHỤC SINH (19/04/2025) .: NHỮNG BƯỚC CHÂN LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH (19/04/2025) .: CHÚA GIÊSU KHAI SINH KỶ NGUYÊN MỚI (19/04/2025) .: ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI (19/04/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam