Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 12

Tổng truy cập: 1343625

BỆNH PHONG TÂM HỒN

BNH PHONG TÂM HN

Thời xưa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị con như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị con như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.

Một lần nữa, Đức Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người bệnh phong. Không những Người đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương yêu đã khiến Đức Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Đức Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái.

Khi chữa khỏi bệnh phong, Người đã giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ. Giọng nói anh thanh tao. Anh cũng là một người như bao người khác.

Nhưng điều quan trọng hơn, đó là khi chữa anh khỏi chứng bệnh nan y, Đức Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh. Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt. Nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.

Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội. Đức Giêsu bảo anh đi trình diện với thày cả theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Đức Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Danh dự anh được tôn cao. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người.

Chúng ta ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, những vết thương sâu kín, những niềm đau khôn nguôi, những nỗi buồn hầu như không ai thông cảm được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến với Đức Giêsu. Người sẽ xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta.

Phần ta, hãy biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, đừng loại trừ anh em mình ra khỏi đời sống xã hội. Hãy biết đến với những anh em bị bỏ rơi. Hãy biết an ủi những anh em đang buồn khổ. Hãy biết tránh cho anh em những mặc cảm nặng nề. Hãy hàn gắn những vết thương trong tâm hồn anh em. Hãy tôn trọng danh dự và nhân phẩm của anh em. Hãy giúp cho anh em mình được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Nước ta đang quyết tâm thanh toán bệnh phong vào cuối năm nay. Xứ đạo ta cũng hãy quyết tâm thanh toán bệnh phong trong tâm hồn. Hãy diệt trừ bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy chay bệnh phong loại trừ. Hãy xóa đi bệnh phong phân biệt. Hãy phá tan bệnh phong nghi kỵ. Hãy bài trừ bệnh phong kết án. Nếu ta thanh toán được bệnh phong tâm hồn, thân thể xứ đạo ta sẽ liền da liền thịt, khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hồng hào, rạng rỡ vui tươi phản ảnh được khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.

Ly Đức Giêsu, xin cu độ chúng con. Amen.

CÂU HI GI Ý ĐỂ CHIA S

1- Cha Đa-miêng và Đức cha Cát-xe đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Có lần nào bạn đã tiếp xúc với người bị bệnh hay bị bỏ rơi chưa? Bạn có phải trả giá về hành động này không?

2- Có bao giờ bạn đã là nạn nhân bị người khác loại trừ chưa? Bạn cảm thấy thế nào? Bạn rút ra được bài học gì từ kinh nghiệm đó?

3- Bạn đã có kinh nghiệm về sự được Chúa an ủi, được Chúa cứu chữa, được Chúa tha thứ bao giờ chưa?

4- Bệnh phong tâm hồn là gì?

 

37. Muốn và có thể.

(Trích trong ‘Manna’ – Lm Nguyễn Cao Siêu)

Suy Nim

Mẹ Têrêxa lập quỹ giúp người phong ở Calcutta. Những thùng quyên tiền của Mẹ mang dòng chữ: “Hãy chạm đến một người phong bằng lòng trắc ẩn của bạn”.

Chạm đến người phong là điều xưa nay ai cũng sợ. Theo luật Cựu Ước, người phong phải mặc rách, xõa tóc, che râu. Đi đâu người ấy cũng phải la to: “Ô uế! ô uế!” (Lv 13,45-46). Bị cách ly với mọi người, bị coi như mắc trọng tội, đau đớn cả xác lẫn hồn, người phong sống mà như chết.

Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay khá đặc biệt. Anh tự ý đến gặp Đức Giêsu và quỳ xuống trước mặt Ngài. Lời van xin của anh thật là một lời xin mẫu mực. “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Nếu Ngài muốn: anh mời gọi lòng thương xót của Ngài. Anh để cho Ngài tự do chữa hay không tùy ý. Dù rất muốn khỏi bệnh, nhưng anh lại phó thác số phận mình cho ý Ngài muốn. Ngài có thể: anh tin tưởng vào quyền năng của Ngài. Anh không nói như người cha của đứa con bị động kinh: “Nếu Thầy có thể làm được gì...” (Mc 9,22).

Đối với anh, chắc chắn Ngài có thể chữa anh lành bệnh. Chỉ cần Ngài muốn là đủ rồi. Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ, phó thác của anh đã đụng rất mạnh đến chỗ sâu nhất trong lòng Đức Giêsu.

Không cưỡng lại được sự tin cậy đó, Ngài nói: “Tôi muốn.” Phép lạ phát sinh từ lòng tin của người phong và từ ý muốn đầy quyền năng của Đức Giêsu.

Nhưng Ngài không chỉ muốn, mà còn đụng vào anh. Ngài không kinh tởm, không sợ lây, không sợ bị ô uế. Bàn tay Ngài đụng vào da thịt anh với các vết thương. Ngài không bị ô uế, nhưng Ngài làm cho anh hết ô uế. Chính lòng thương đã khiến Ngài mạnh dạn đụng vào anh, như chính anh đã mạnh dạn đến với Ngài bằng lòng tin.

Đức Giêsu vừa tự do với Lề Luật, vừa lệ thuộc Lề Luật. Ngài bảo anh đi trình diện với tư tế và dâng của lễ.

Chúng ta cần nếm niềm vui của người phong được lành.

Anh hạnh phúc vì được sạch, được làm người bình thường, được chung sống với cộng đoàn, được hiệp thông với Thiên Chúa. Anh lấy lại phẩm giá, ra khỏi những mặc cảm. Niềm vui quá lớn khiến anh đi loan báo khắp nơi. Người phong sau khi được khỏi đã có thể vào thành. Còn Đức Giêsu lại phải ở ngoài thành, nơi hoang vắng.

Từ khi ông Hansen tìm ra vi trùng bệnh phong năm 1871, người phong đã có được niềm hy vọng chữa lành. Họ không còn bị trục xuất ra đảo xa hay bị bách hại. Nhưng để cho họ được sống như mọi người vẫn là điều khó.

Cũng có những người bị ta xa tránh như người phong: những cô gái lỡ lầm, những người mắc bệnh sida hay nghiện ngập, những người có tiền án hay thuộc giai cấp cùng đinh... Hãy đến gần họ và để họ đến gần mình, vì nói cho cùng, ít nhiều chúng ta đều là người phong.

Gi Ý Chia S

Khi cầu nguyện để xin ơn, thường chúng ta ít để cho Chúa được tự do. Chúng ta như muốn bắt Chúa phải làm theo ý mình. Lời cầu xin của người phong có nhắc nhở bạn điều gì đó không?

Cha Đamiêng, Đức Cha Cassaigne đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Bạn có lần nào đụng chạm hay tiếp xúc với một người bị bỏ rơi, bị coi là ô uế không? Bạn có phải trả giá về hành động này không?

Cu Nguyn

Ly Chúa là Thiên Chúa ca con, có nhng ngày đón nhn nhng người khác là điu vượt quá sc con, vì con kiêu hãnh, t hào và yếu đui.

Ly Chúa là Thiên Chúa ca con, có nhng ngày con không th nào kính trng k khác được, vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn ca người y.

Ly Chúa là Thiên Chúa ca con có nhng ngày mà yêu mến người khác làm cho tim con đau nhói, vì ni s hãi, ni kh đau và nhng gii hn ca bn thân con.

Ly Chúa là Thiên Chúa ca con trong nhng ngày khó khăn đó, xin hãy nhc cho con nh rng tt c chúng con đều là con cái Chúa và đừng để con quên Li Chúa nói: “Điu gì chúng con làm cho người bé nh nht là làm cho chính Ta”

 

38. Người bị loại trừ.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Đối với tâm lý người xưa nói chung và người Do Thái nói riêng, bệnh tật nếu không phải do tội lỗi thì cũng là trò ma chước quỷ bày ra. Xét theo diện nào, thì bệnh tật cũng đều đáng sợ. Và bệnh càng nặng, càng ghê tởm, người ta càng phải cẩn thận, đề phòng.

Ở đất Do Thái thời bấy giờ có lẽ không bệnh nào nan trị bằng bệnh phong cùi. Nó vừa ghê tởm vừa dễ lây. Xã hội lập tức đã phải có biện pháp đối với những người mắc bệnh phong cùi. Luật pháp Do Thái trục xuất người phong cùi ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội. Người phong cùi phải ra khỏi nhà, đến ở những nơi hoang vu hẻo lánh, không được tiếp xúc với ai và cũng không được để cho ai đến gần mình. Gặp ai qua đường, bệnh nhân phải lên tiếng làm hiệu trước để cho mọi người tránh xa, kẻo bị ô nhiễm theo luật. Vô phúc cho ai bị ô nhiễm như vậy, vì sẽ bị tuyệt thông, không được tham dự các nghi lễ nữa, trước khi làm lễ thanh tẩy theo luật dạy. Còn chính người phong cùi, khi thấy thân xác lành sạch phải đến trình diện các Thầy Tư Tế để xin khám nghiệm. Nếu đúng đã lành bệnh thật, họ còn phải dâng lễ đền tội và thanh tẩy trước khi được cấp giấy chứng nhận phục hồi quyền hiệp thông với cộng đồng xã hội.

Anh chị em thân mến,

Có hiểu số phận thảm thương của người phong cùi trong xã hội Do Thái thời xưa, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa đoạn Tin Mừng hôm nay: Một người phong cùi dám đến gần Chúa Giêsu, bất chấp pháp luật ngăn cấm. Anh đến quỳ xuống van lạy Chúa Giêsu. Thái độ đó chứng tỏ một lòng tin thật mạnh mẽ. Chúa Giêsu động lòng thương, Ngài cũng bất chấp pháp luật, Ngài giơ tay ra đụng đến người phong cùi và phán: “Ta muốn anh được sạch”, tức thì bệnh phong cùi biến mất, người phong cùi được lành sạch.

Ngày nay, quan niệm khắt khe đối với bệnh phong cùi đã chuyển biến. Nhiều người và nhiều tổ chức từ thiện đã và đang xả thân chăm sóc, giúp đỡ, điều trị những người phong cùi trên thế giới. Với đà tiến bộ của y khoa, người ta đã hy vọng sẽ một ngày không xa, sẽ bài trừ được hết bệnh phong cùi.

Tuy nhiên, có một thứ bệnh phong cùi mà khoa học không bao giờ chữa được, đó là bệnh phong cùi của tâm hồn, đó là tội lỗi: hận thù, kỳ thị chủng tộc, ý thức hệ, bạo lực. Chính bệnh phong cùi này mới đáng sợ, vì nó cô lập con người xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn dân Chúa. Bệnh phong cùi này chỉ có Máu Thánh Chúa Kitô mới thanh tẩy được. Chúa Giêsu đã đến để giao hòa vạn vật với nhau, nhờ được giao hòa với Thiên Chúa. Vì Ngài đến để xóa bỏ tội lỗi và làm cho tất cả nhân loại được nên trong sạch, được đến gần Thiên Chúa, được nên dân Chúa. Chúa Giêsu đã chết và và sống lại để cho chúng ta được lành sạch, cho chúng ta được làm con Thiên Chúa và làm anh em hết mọi người. Không loại trừ ai và không bị ai loại trừ. Ngài đã giao hòa vạn vật trên trời dưới đất, không còn loài vật sạch hay dơ, không còn biên giới ngăn cách chúng ta với Chúa và với mọi người. Nhưng Chúa Giêsu cũng đã để lại trong Giáo Hội các Nhiệm Tích, nhất là Nhiệm Tích Hòa Giải là phương thế Chúa dùng để tẩy sạch bệnh phong cùi của chúng ta và giao hòa nối kết chúng ta lại với Chúa và với mọi người, để củng cố mối dây liên kết ấy ngày càng bền chặt hơn.

Thưa anh chị em,

Chúng ta đã biết, theo luật pháp Do Thái, người mắc bệnh phong cùi phải ở riêng ngoài trại, cách ly mọi người, không được đến gần ai và cũng không ai được đến gần họ. Nhưng ở đây, với lòng tin mãnh liệt, người cùi đón đường và tiến đến bên Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu, thay vì xa lánh bệnh nhân như luật buộc, “Ngài đưa tay ra đụng đến người phong cùi”. Đối với Chúa, không có vấn đề kỳ thị, cấm kỵ, loại trừ. Chúa là tất cả cho mọi người, không kỳ thị chủng tộc, văn hóa, giàu nghèo, bệnh tật…

Thái độ tin tưởng của người phong cùi và hành động nhân hậu của Chúa Giêsu cho chúng ta một bài học: chúng ta đừng bao giờ tự biến thành người mắc bệnh phong cùi nghĩa là đừng tự cô lập mình với anh em, đừng tự giam mình trong pháo đài ích kỷ, thù hận nhưng hãy biết quảng đại yêu thương bằng việc sẵn sàng quên mình vì mọi người.

Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy biết nhìn người anh em đồng loại như một “cái mình khác” của chính mình. Một khi nhìn nhận như thế, chúng ta phải trở nên anh em của bất cứ người nào, không trừ một ai, và phải đi đến với mọi người để phục vụ trong tình yêu thương. Người già cả, người nghèo khó, người bệnh tật, người cô đơn hay hèn kém… Tất cả đều kêu gọi lương tâm Kitô giáo của chúng ta, và chúng ta hãy nhớ lại Lời Chúa: “Tất cả những gì anh em làm cho một người bé nhỏ nhất trong các anh em Ta, là anh em đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Chúng ta hãy nhìn nhận trong mọi người sự có mặt của Chúa Kitô. Mọi người đều là anh em mà chúng ta phải yêu mến một cách thật tình. Bằng chính lời nói, hành động yêu thương mà chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô và thông hiệp với những người khác trong mầu nhiệm tình yêu của Cha trên trời.

Có l ông bà anh ch em đã được nghe nói đến Đức Cha Jean Cassaigne, nguyên Giám Mc Giáo phn Sài Gòn ca chúng ta trước đây. Sau 15 năm làm Giám Mc Sài Gòn, Đức Cha Jean Cassaigne đã tình nguyn v sng gia nhng bnh nhân phong cùi thân yêu ca ngài tri phong cùi Di Linh (Lâm Đồng), trong mt ngôi nhà g nh hp. Tuy không gi mt địa v nào trước mt xã hi, nhưng ngài tht là mt người bn ca người phong cùi, mt chng nhân ca tình yêu Thiên Chúa, mt con người hy sinh phc v người phong cùi, chp nhn mang ly bnh phong cùi ca h và chết đi gia h.

Mười tám năm tri, ngài sng trong thinh lng gia rng núi thâm u, vi nhng bnh nhân phong cùi, không my ai biết đến. Nhưng khi ngài mt đi vào năm 1973, mi người hay biết đều cm phc tm gương hy sinh anh dũng ca ngài, ngài đáng được gi là: “Cha ca người phong cùi”.

Tấm gương bác ái cao cả đó, không phải ai cũng có thể noi theo được, nhưng trước mắt chúng ta, còn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh kiểu dân Do Thái thời Cựu Ước xa lánh người phong cùi. Có khi chúng ta đã gán cho họ những nhãn hiệu thù nghịch, để rồi không bao giờ muốn tiếp xúc với họ, sợ mình trở thành “cùi” như họ. Có khi chúng ta đã từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ, chỉ vì họ không cùng tôn giáo hay lập trường với chúng ta. Nếu chúng ta làm như vậy là chúng ta khinh thường, làm nhục sứ mạng giao hòa mọi người mọi vật, sứ mạng mà Chúa Giêsu đã nhận lãnh từ Chúa Cha, đã thi hành bằng cách hiến mạng sống mình, đổ đến giọt máu cuối cùng trong trái tim của Ngài.

Trong Thánh Lễ hôm nay, khi chúng ta tưởng niệm Mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu, mầu nhiệm là cho chúng ta được giao hòa với Chúa và với nhau, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta luôn xa lánh tội lỗi để được hiệp thông với Chúa và với anh em, biết sống quảng đại mối giao hòa với hết mọi người mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho chúng ta.

 

39. Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường.

Con người không chỉ có nhu cầu ăn uống, ngủ nghỉ mà còn nhu cầu tinh thần cũng như nhu cầu tâm linh nữa. Nhu cầu tinh thần thể hiện qua việc tâm sự buồn cần chia sẻ cùng người tin tưởng, biết lắng nghe. Nềm vui cần chia sẻ cho người khác biết để niềm vui được trọn vẹn. Niềm vui trọn vẹn là niềm vui được chia sẻ cho mọi người cùng chung niềm vui với mình. Niềm vui không trọn vẹn là niềm vui bị giấu kín trong cõi lòng. Phải dấu kín vì sợ. Thí dụ một người trúng số độc đắc không giám công khai cho người khác biết niềm vui vì sợ niềm vui kia sẽ mang đến hậu quả tai hại vì thế chỉ âm thầm vui một mình.

Biết được nhu cầu cần chia sẻ cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy người bị bệnh phong cùi là bệnh thời đó không thuốc chữa. Ai mắc bệnh đó coi như bị bỏ ra ngoài xã hội, bị xã hội ruồng bỏ, không cho sinh hoạt chung trong cộng đoàn. Người đó có cuộc sống dật dờ, sống cũng như chết vì không còn bạn bè, thân thích. Anh ta được Đức Kitô chữa lành. Niềm vui của anh tràn ngập tâm hồn nên anh không thể cầm giữ trong lòng mà cất tiếng ca tụng Thiên Chúa. Mặc dù Đức Kitô dặn anh đừng nói cho ai biết việc này cho đến khi vào đền thờ dâng lời tạ ơn nhưng anh không kiềm chế được niềm vui và để cho nó bộc phát. Có lẽ dù không lớn tiếng nói, khuôn mặt anh không dấu được niềm vui. Miệng luôn điểm nụ cười. Làn da trên người tố cáo niềm vui nội tâm, nó không còn sần sùi, trông đến gớm như xưa nhưng bóng nhẵn. Chính những dấu chỉ này tố cáo anh nhận được ơn đặc biệt. Vì thế khi nhìn bàn tay sạch bệnh anh không thể nào không lớn tiếng vui mừng. Soi bóng mình trên nước anh không khỏi nhảy múa. Toàn thân con người anh tự tố cáo, toàn thân con người viết lên bản nhạc vui, nội tâm mừng rỡ, tấm lòng hân hoan. Chính vì thế mà anh không thể kìm hãm được niềm vui.

Hàng năm tôi có cơ may nhận biết những khuôn mặt ngây thơ, rộn rã, niềm vui như thế. Đó là những khuôn mặt cười tươi, hồn nhiên, trong sáng của các em chuẩn bị tập dợt trong dịp lãnh nhận bí tích Thêm Sức hay Rước Lễ lần đầu. Trên khuôn mặt thơ dại kia cũng vẽ lên niềm vui rực sáng như thế. Các em cũng tung tăng trong y phục bóng láng, cũng vui vẻ khoe nhau quần áo, lơ, giầy mới. Các em cũng bước đi đá chân sáo, nhảy nhót nhịp nhàng diễn tả niềm vui tràn đầy trong tâm hồn. Rất ít thấy niềm vui như trên thể hiện nơi người lớn. Người lớn diễn tả niềm vui rộn ràng, kín đáo hơn các em. Tôi bắt gặp người nào đó tay làm miệng hát nho nhỏ câu ca tụng tình Chúa. Viềm vui diễn tả nhẹ nhàng qua nốt nhạc. Tôi thấy anh nọ thanh thản trong bộ y phục, đường ủi thẳng tắp, không một vết nhăn. Cái càvạt còn thơm mùi vải mới. Thái độ thong thả của anh cho biết anh đang vui trong lòng, lòng phơi phới tiến về trung tâm chia sẻ niềm vui với mọi người. Tôi gặp cụ già, rẽ ngôi giữa đầu, quần áo chỉnh tề đến trước giờ hội hơn tiếng đồng hồ. Điều đó biểu lộ niềm vui mong chờ cụ ôm ấp trong tim.

Những niềm vui đó bàng bạc trong cuộc sống, trong những sinh hoạt tôn giáo, những dịp đại lễ, nhắc chúng ta tôn giáo không phải luôn là gánh nặng với nhiều luật lệ cứng ngắc. Tôn giáo là cánh cửa mang lại niềm vui, thức tỉnh niềm vui trong tâm hồn. Niềm vui được đánh thức, được khuếch tán rộng ra mỗi khi tâm hồn ta gặp gỡ Đức Kitô.

Anh cùi gặp Đức Kitô xin Ngài được chữa lành, làm sống lại cuộc đời ủ dột. Xã hội loài người liệt anh vào hạng vất bỏ. Đức Kitô ban cho anh sự sống với, sống vui mạnh hơn những người đón nhận ơn mưa móc, hưởng lộc từ xã hội.

Xin ơn gặp gỡ Đức Kitô, cuộc đời được biến đổi thành chuỗi ngày vui thoả.

 

40. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng

Ngay từ thời cổ xưa, bệnh phong cùi đã gây ra mối lo sợ cho loài người, tương tự như mối lo sợ của người đời nay về những bệnh nan trị như ung thư, si-đa... Ngoài việc phải phấn đấu với chứng bệnh huỷ hoại thân thể, người phong cùi còn phải chịu một hình phạt thấm thía hơn về tinh thần: đó là bị người đời xa tránh.

Người phong cùi thời xưa phải sống tách biệt khỏi người lành mạnh. Sách Lêvi ghi lại: Người ấy phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại (Lv 13:46). Nếu gặp người mạnh khoẻ ngoài đường, họ phải hô hoán lên: Ô uế (Lv 13:45) cho người khác biết mà đề phòng. Ngoài ra người phong cùi không được phép đến nơi thờ phượng công cộng vì bệnh phong cùi bị coi là nhơ bẩn. Vì thế mà người phong cùi trong Phúc âm hôm nay quyết tâm đến gặp Chúa để xin được chữa lành: Nếu Ngài muốn, xin Ngài cứu chữa tôi (Mc 1:40). Động lòng thương xót, Chúa giơ tay động vào người cùi mà bảo: Tôi muốn, anh hãy được sạch (Mc 1:42).

Đọc những vần thơ của Hàn Mặc Tử, người thi sĩ trẻ tuổi tài cao mắc bệnh cùi, phải vào ở trại Qui Hoà, biểu lộ những rung cảm trong cảnh buồn tủi và sầu khổ, ta mới hiểu được nỗi đau đớn trong cảnh cô đơn thất vọng của người mắc bệnh như thế nào! Cuối cùng người thi sĩ bệnh phong đã tìm nương tựa vào Chúa và niềm an ủi nơi trinh nữ Maria.

Hình ảnh linh mục Đa-miêng, vị tông đồ người cùi, cho thấy một đời hi sinh quên mình. Khi Đức cha ở đảo Molokai giới thiệu cha Đamiêng với dân cùi ở đảo là cha tình nguyện đến phục vụ họ. Cha Đamiêng rởn tóc gáy khi nhìn thấy họ đến sờ vào thân mình cha. Đức cha giải thích cho cha Đamiêng là họ không thể hiểu nổi tại sao một người ở phương xa từ Bỉ quốc, không liên hệ gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai, không bệnh tật như họ, lại có thể đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt nhìn của mình nên mới đến sờ thử vào người cha, xem cha có thực sự mắc bệnh cùi không? Rồi họ nói với nhau: Không. Dần dần cha Đamiêng hoà đồng được với họ và không còn cảm thấy ghê tởm như ngày đầu. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi.

Một vị tông đồ khác, Đức cha Cassaigne, từ chức tổng giám mục Sàigòn để lên phục vụ người cùi ở Di Linh. Đức cha viết thư về Pháp kể lại: khi những ung nhọt bắt đầu lở loét, khiến người xung quanh tởm ghớm, người cùi không tự giúp mình được nữa, thì dân làng đưa họ vào xó rừng, để người cùi ở lại đó một mình, cô đơn, hiu quạnh, đói khổ mà chết dần chết mòn. Cuối cùng Đức Cha Cassaigne cũng chết vì mắc bệnh cùi.

Tình yêu Chúa còn thúc đẩy những nữ tu và giáo dân như Sơ Maria Goretti và chị Anna Xuân đã phục vụ những trại cùi ở quê nhà. Nữ tu Nguyễn Thị Khuyên sau hai mươi năm săn sóc người cùi ở trại Ja Lai, Kông Tum cũng mắc bệnh mà chết. Năm 1963, báo chí Sàigòn loan tin về một chiêu đãi viên trẻ đẹp, hãng máy bay PANAM Mỹ, tình nguyện sang phục vụ người cùi ở trại Di Linh sáu tháng. Đến xin ý kiến Giám mục Fulton Sheen xem cô phải làm gì để tạ ơn Thiên Chúa cho sắc đẹp của cô như Đức Cha đã có lần khen và hỏi xem cô đã làm gì để tạ ơn Chúa. Bất chợt không sửa soạn, Đức Cha đề nghị cô nên sang Việt Nam giúp Đức Cha Cassaigne phục vụ người cùi ở đây một thời gian để làm dịu bớt những đau khổ và lẻ loi của người xấu số. Thất vọng về lời đề nghị, cô bỏ ra về mà không thèm chào. Nhờ suy nghĩ và cầu nguyện, cuối cùng cô đã chấp nhận ra đi.

Hiện nay vẫn còn có những trại phong cùi trên thế giới. Năm 2005, con số khai báo cho Liên hiệp quốc là 47.596 người mắc bệnh phong cùi ở Phi châu, 36.877 ở Mỹ châu, 5.398 ở miền tây Đia Trung Hải, 186.182 ở Đông Nam Á châu gồm Việt nam với 28 trại phong cùi và 10.010 ở phía Tây Thái Bình Dương. Ngày nay vẫn còn có những linh mục, nữ tu, và giáo dân tình nguyện phục vụ họ. Vào Ngày Phong Cùi Thế Giới 29 tháng 01, 2006 Đức giáo hoàng Bênêđítô XVI cho rằng nguyên nhân của bệnh phong cùi là do sự nghèo đói và kêu gọi cộng đồng quốc tế tìm cách diệt trừ mầm mống của bệnh này. Có dịp đi thăm một trại phong cùi, với cặp mắt quan sát bệnh nhân cũng như những người phục vụ họ, cùng với đầu óc suy tư và ghi nhận, ta sẽ thấy đời sống thay đổi. Rồi sẽ thấy mình bớt phạm tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Và rồi mình cũng sẽ tự hỏi mình xem yếu tố nào đã thúc đẩy những người này dám hi sinh quên mình để phục vụ họ như vậy?

Giới tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường ví tội lỗi như một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thể xác khiến người ta bị cô lập hoá về phương diện thể lý, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi, cũng khiến người ta bị cô lập về đời sống thiêng liêng. Tội làm sứt mẻ tình bạn với Chúa và tha nhân. Có những tội khiến ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Có những tội khiến người ta muốn tránh, không muốn gặp người khác vì mắc cở. Người khác cũng không muốn gặp họ vì không muốn gợi lại những kỉ niệm đau lòng quá khứ và không muốn trở thành nạn nhân lần thứ hai.

Để được thoát khỏi cảnh tuyệt vọng, người phong cùi đã tìm đến Chúa để xin được ơn chữa lành. Bệnh nhân đã không để cho thất vọng chi phối. Anh ta đã đến kêu cầu với Chúa. Điều mà người mắc bệnh cùi thiêng liêng cần có là đức tin và lòng cậy trông như niềm tin cậy của người phong cùi vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa. Để có thể nại đến lòng thương xót và quyền năng của Chúa, người ta phải nhận mình có bệnh hoặc có tội. Người không nhận mình có bệnh hay có tội, thì không tìm đến thầy thuốc. Họ là những người vô phương cứu chữa.

Lời cầu nguyện cho bệnh nhân phong và những người phục vụ họ:

Lạy Chúa, Chúa đã đến chữa người phong cùi thuở xưa.

Xin Chúa cũng chữa bệnh phong trong thời hiện đại,

ban cho bệnh nhân lòng tin cậy, phó thác vào Chúa.

Xin soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia

để họ tìm ra thuốc men và cách thế trị bệnh.

Còn những người phục vụ bệnh nhân,

xin Chúa là nguồn sức mạnh và kiên nhẫn của h

và gìn giữ họ khỏi bị nhiễm bệnh. Amen.

home Mục lục Lưu trữ